Nhà phê bình Phùng Gia Thế:

“Điều tôi quan tâm nhất ở một tác giả là thi pháp“

TRANG THỤY

VHO - Sau tập tiểu luận "Hiểm địa văn chương" (Nxb. Văn học, 8.2023), nhà phê bình Phùng Gia Thế vừa ra mắt độc giả cuốn tiểu luận "Văn học thời tôi" (Nxb. Văn học, 10.2025) với 32 bài viết, 342 trang được chia làm hai phần, trong đó phần một phác họa về tình hình văn chương Việt Nam đương đại, phần hai viết về "chân dung - thi pháp" của nhiều nhân vật cùng các tác phẩm của họ.

 “Điều tôi quan tâm nhất ở một tác giả là thi pháp“ - ảnh 1
PGS.TS, nhà phê bình Phùng Gia Thế

Nhìn tổng thể trong đời sống phê bình văn học hiện nay, tập tiểu luận Văn học thời tôi đã mở ra một đời sống mới cho các tác phẩm đồng thời góp thêm một tiếng nói vào hoạt động sáng tác, thẩm bình văn học.

Từ góc nhìn đương đại, có thể xem Văn học thời tôi là một nguồn tư liệu để giới đọc, viết, giới phê bình, trường học có thể sử dụng vào các hoạt động tham khảo, đối thoại văn học.

Theo nhà báo Nhật Minh, Phùng Gia Thế “có lối viết đan cài của bốn nhà trong một: nhà phê bình văn học, nhà giáo, nhà báo, và thậm chí mang hơi hướng của nhà văn...”. Bạn đọc còn nhận thấy ở Phùng Gia Thế sự điềm tĩnh, tinh thần trách nhiệm và tư duy sắc sảo của một nhà phê bình với phong cách riêng, không gò mình vào lối viết mực thước hay hàn lâm. Khi bàn về bất cứ vấn đề nào trong Văn học thời tôi, anh đều biết cách đặt vấn đề, xới lật, cung cấp thông tin, nêu quan điểm, và khép lại vấn đề một cách rõ ràng, dễ hiểu và thấu đáo.

Ở loạt bài bàn về tình hình văn chương đương đại Việt Nam, Phùng Gia Thế đã trình bày và diễn giải suy nghĩ của mình về nhiều vấn đề thời sự của văn học. 

Anh đặt ra những câu hỏi rất thực tế, đồng thời đưa ra các giả thuyết để làm rõ vấn đề từ nhiều góc độ, điển hình như:“Phê bình sẽ giam mình trong khung cũ tới bao giờ? Số phận môn Văn sẽ ra sao? Vì sao văn chương đang mất dần độc giả? Sự lùi lại phía sau của văn chương có phải là “văn học đã chết”? Phải chăng phê bình Mác-xít đã bỏ qua điểm độc đáo về phương diện nghệ thuật trong mỗi cá tính sáng tạo, mỗi tác phẩm? Ta có cho phép “nhà văn AI” nói bằng tác phẩm của mình một cách bình đẳng với “nhà văn thực” hay không?"...

Trong quá trình luận bàn, anh thể hiện quan điểm rất rõ ràng: “Chưa bao giờ tôi thấy đời sống văn học trong nhà trường lại “tụt dốc không phanh” như vừa rồi”; “Hãy tạm gác tự ái sang bên để nhìn vào sự thật”; "Phê bình văn học hiện nay quá thiên về thù tạc”; “Phê bình mà bắt văn học phải “giống như thật” hay đem tác phẩm ra để đối chiếu giản đơn với thực tại thì ấu trĩ vô cùng”...

Trong quan sát của tác giả: “Bọn trẻ bây giờ không đọc sách văn, có cảm giác hầu như chẳng đọc sách gì”, "ranh giới giữa cái hay và cái bình thường bị làm mờ", “văn học đang dần rời khỏi vị trí trung tâm của văn hóa đương đại”, "nhà văn cạn cợt suy tư, thiếu sự lắng đọng của xúc cảm và sự khám phá chiều sâu thân phận con người”

Phùng Gia Thế không dùng từ mang sắc thái phủ nhận thái quá mà chủ dùng những từ như “nhà văn hạng hai”, “nhà văn ảo”, "cái bình thường"… nhưng dù thế nào thì cái bình thường, cái hạng hai, cái ảo đó vẫn nên ít đi; anh nhấn mạnh rằng: "chất lượng của nền văn học được đo bằng tác giả và tác phẩm".

 “Điều tôi quan tâm nhất ở một tác giả là thi pháp“ - ảnh 2
Tiểu luận "Văn học thời tôi" của Phùng Gia Thế

Nói tới vai trò của nhà phê bình là nói tới vai trò của “người đồng sáng tạo”. 25 bài viết nói về 25 tác giả, tác phẩm cho thấy sự theo dõi, phát hiện, tư duy và lối thẩm bình rất riêng của Phùng Gia Thế. Nhà báo Nhật Minh nhận xét: “đó là những trang viết ấm, thứ phê bình có tình”. “Có tình” ở đây là một lối viết thấu hiểu nhân vật, khách quan và tin cậy. Nhà phê bình đọc thật, viết thật; anh tìm thấy “cái để viết” ở những tác phẩm có sự đóng góp cho diện mạo chung của nền văn học mà không bị chi phối bởi yếu tố cảm tính.

Có thể hiểu “phê bình có tình” là một lối viết, một đặc trưng về ngôn ngữ, một không khí thẩm bình xuyên suốt tiến trình viết hay điều gì đó thuộc về bên trong (tính cách) người viết chứ không phải viết với chủ ý tung hô, sáo rỗng… Việc viết ở nhiều góc nhìn, “nhiều nhà trong một”, “viết ấm”, “viết có tình” thực tế đã đưa lại một hiệu ứng tiếp nhận tác phẩm rất tự nhiên cho người đọc.

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từng nói: “Sáng tác đã khó. Đọc, nghe hay dịch cho sát với văn bản cũng không phải dễ. Phê bình không chỉ là đọc, là nghe, là dịch mà còn là giải mã tác phẩm; rồi trên cả giải mã là bình luận và đưa ra những luận điểm đắt nhất về đối tượng phê bình...”

Cũng như các tiền bối, Phùng Gia Thế chọn cách đọc và viết không nhàn. Khi bàn tới bất cứ một tác phẩm nào anh đều có sự theo dõi, đối sánh để tìm ra những bước chuyển rõ nét nhất trong “thi pháp” sáng tác ở từng tác giả. Khi đặt tên cho bài viết, để bạn đọc có những nhận diện đầu tiên về nhân vật và tác phẩm, anh nói tới những gì đặc trưng nhất ở họ và những thông tin cơ bản mà ta tạm gọi là trích ngang.

Ví dụ: “Lã Nguyên và nghiên cứu, phê bình văn học; Hồ Minh Tâm một ca lạ trong thơ; Nguyễn Phú và sinh thái truyện miền núi, Như Bình trong khu vườn giông bão; Lê Anh Hoài “tao nhân dị mặt”; Trang Thụy bước ra từ cỏ đắng; Nguyễn Thị Kim Nhung phía trung du dần sáng….

Chính nhờ cách tiếp cận tỉ mỉ và tinh tế này mà nhà báo Nhật Minh gọi Phùng Gia Thế là “người đi tìm mã”.

Khi đi tìm mã, giải mã tác phẩm, nhà phê bình Phùng Gia Thế khẳng định: "Điều tôi quan tâm nhất ở một tác phẩm là thi pháp". Vậy thi pháp là gì? Đó là một tập hợp những hình thức nghệ thuật tạo nên cá tính, sự độc đáo cho tác phẩm như: tạo dựng cốt truyện, thiết lập tư tưởng, bố cục tác phẩm, cách thức dẫn truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật ngôn từ (bút pháp)...

Nhà văn người Nga Anton Pavlovich Chekhov từng nói: “nếu không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ”. Thật vậy, một tác phẩm đặc sắc là một tác phẩm “có giọng riêng”, có một đời sống tốt nhất trước khi các nhà phê bình có sự giải minh và người đọc kiểm chứng.

Đọc Văn học thời tôi bàn về thi pháp, ở mỗi bài viết, Phùng Gia Thế đều đưa ra những diễn giải, dẫn chứng, lập luận rất xác đáng. Theo anh: “Trong thế giới của chơi, Hồ Minh Tâm cố tình chối bỏ những thói quen và giới hạn truyền thống của thơ (nghĩa, cảm xúc, từ ngữ, cú pháp). Trong cách hành ngôn, thơ Hồ Minh Tâm như một “sự xúc phạm” đối với công chúng đi tìm vẻ đẹp thuần khiết của thi ca. Trên một ý nghĩa nào đó, Hồ Minh Tâm là kẻ phá bĩnh của thơ” hay “truyện Y Ban đầy ắp sự kiện (bao gồm cả sự kiện xã hội và sự kiện tâm tư), nó đặt ra những vấn đề quan trọng về thân phận con người (đặc biệt là người phụ nữ), đậm chất nhân văn và cuối cùng là một nghệ thuật kể chuyện cuốn hút, tự nhiên và đầy ma lực”

Đặc biệt, trong quá trình đọc và thẩm bình, anh phát hiện ra những chi tiết đắt, những câu chữ hay, đó là những dẫn chứng có giá trị để làm căn cứ cho những kiến giải, lập luận… Điều này phần nào cho thấy sự nhạy bén, nhạy cảm trong đôi mắt và tư duy của một người viết phê bình. Chẳng hạn: “Nhân vật trữ tình trong thơ Thy Nguyên chủ yếu xuất hiện trong bản mệnh đa đoan, trong những vùng đau thiếu phụ: Trăng lạnh thế / Và mưa già thế/ Chỉ hàng cây cúi lặng bên đường/ Và cỏ nữa díu dan ngày em hạnh/ Chưa một lần dự cảm đa đoan/ Và rồi gió/ Và rồi anh thay áo/ Em uống son quên bặt những ân cần/ Rượu uống em, làm môi quên đỏ/ Quên cả lần chúng mình có con…” (Trăng lạnh & mưa già).

Cuối cùng, tác giả đặt tên tiểu luận là Văn học thời tôi, với hàm ý về một vùng riêng, một khung thời đại cụ thể để đặt nhân vật và vấn đề vào phân tích, đánh giá. Không áp đặt góc nhìn cho bất cứ ai, nhà phê bình xuất hiện như một “mắt xích” kết nối người viết và độc giả. Nhờ vốn đọc và tư duy sâu sắc, Phùng Gia Thế giúp quá trình chuyển tải và tiếp nhận các giá trị văn học trở nên công bằng và cụ thể hơn, đồng thời làm cho chân dung các nhân vật hiện lên rõ nét, chân thực.

Như Giáo sư E. Gombrich từng nói: “Chẳng ai hiểu biết hết về nghệ thuật. Luôn có những điều mới để khám phá. Những tác phẩm nghệ thuật lớn như đổi khác khi mỗi lần ta đứng trước chúng…”. Hy vọng rằng sau Hiểm địa văn chươngVăn học thời tôi, độc giả sẽ tiếp tục phát hiện những khám phá, những mối quan tâm mới và nhiều tác phẩm hay từ Phùng Gia Thế.                 

Vài nét về Phùng Gia Thế

PGS.TS, nhà phê bình Phùng Gia Thế sinh năm 1977 tại Cẩm Khê, Phú Thọ. Ông tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1999 và hiện là Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Những công trình tiêu biểu của ông gồm:

  • "Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam đương đại" (chuyên luận), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016.

  • "Văn học Việt Nam sau 1986 - Phê bình đối thoại" (tiểu luận – phê bình), Nxb. Văn học, 2016.

  • "Văn học và giới nữ - Một số vấn đề lý luận và lịch sử" (biên soạn), Nxb. Thế giới, 2016.

  • "Hiểm địa văn chương" (tiểu luận – phê bình), Nxb. Hội Nhà văn, 2023.

  • "Thơ mới trong tiến trình ý thức nghệ thuật dân tộc (Nhìn từ một cuộc tranh luận về thơ)" (chuyên khảo), Nxb. Văn học, 2024.

  • "Văn học thời tôi" (tiểu luận – phê bình), Nxb. Văn học, 2025.