Nguyễn Phú và sinh thái truyện miền núi
VHO - Từ những năm tháng công tác ở Hà Giang, Điện Biên, nhà văn Nguyễn Phú đã gom góp vào trang viết của mình cả hơi thở núi rừng và thân phận con người vùng cao. Không ồn ào, phô trương, anh chọn cho mình giọng kể dung dị, giàu chất thơ, tập trung khắc họa những mảnh đời si tình nhưng lắm truân chuyên.

Nguyễn Phú sinh năm 1981 tại Phú Xuyên (Hà Nội), tốt nghiệp Học viện Biên phòng. Anh từng công tác ở vùng cao, sau trở lại làm giảng viên của trường.
Viết truyện ngắn, tản văn, bút ký và thơ, Nguyễn Phú từng đoạt giải B (không có giải A) cuộc thi truyện ngắn 2008-2009 của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, giải Ba cuộc thi truyện ngắn của NXB Giáo dục năm 2022.
Các tác phẩm đã xuất bản gồm Giấc phai (NXB Quân đội nhân dân, 2024), Hoa pằng nảng rơi rơi (NXB Văn học, 2024), Đồi lau sau hoa tím – truyện ngắn và bút ký (NXB Văn học, 2024), Ánh lửa trên đồi quyên thảo (NXB Văn học, 2025)…
Tôi chưa từng gặp Nguyễn Phú, chỉ là bạn Facebook của anh. Thỉnh thoảng, chúng tôi "chat" với nhau vài dòng về sách vở, văn chương, đôi khi là chuyện văn học trẻ. Trong cảm nhận của tôi, anh là người thuần hậu, ân cần, khác hẳn vẻ “ăn sóng nói gió”, phóng túng hay tếu táo thường thấy ở nhiều cây bút trẻ.
Nguyễn Phú khiêm cung, chu đáo, nhã nhặn với mọi người. Anh viết từ lâu nhưng cứ đủng đỉnh chưa ra sách, để rồi đến năm 2024 mới in liền ba tập truyện ngắn và ký: Giấc phai, Hoa pằng nảng rơi rơi và Đồi lau sau hoa tím. Tôi chợt nghĩ, đã đến lúc rồi chăng…
Đọc Nguyễn Phú, thấy anh viết đa dạng, có nội lực, chiều sâu. Tôi ấn tượng hơn cả các truyện về đề tài miền núi của anh, bởi mấy lẽ như sau:
Thứ nhất, viết về miền núi là một thử thách lớn với người trẻ. Ở một nghĩa nào đó, đó là việc mang cuốc chim bổ vào đá: để tạo được dấu ấn, thậm chí chỉ là “vết hằn” nhỏ, cũng chẳng dễ dàng. Trong văn xuôi, đã có cả một lớp tác giả tài danh thuộc nhiều thế hệ như: Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Cao Duy Sơn, Phạm Duy Nghĩa, Đỗ Bích Thúy, Đỗ Tiến Thụy, Tống Ngọc Hân…
Nói vậy để thấy, không phải các nhà văn đã khai thác hết đề tài, mà ở chỗ, khi viết về miền núi, nhà văn phải đối diện với một nan đề: anh sẽ viết gì và viết như thế nào đây.
Tuy nhiên, không ai vì sợ nghẹn mà bỏ ăn, đề tài miền núi luôn là khoảng trời vẫy gọi. Viết về miền núi đòi hỏi sự dũng cảm, tự tin, nhưng cũng cần một cơ duyên.
Nguyễn Phú có được cơ duyên ấy nhờ quãng thời gian dài công tác ở Hà Giang và Điện Biên. Năng lực văn chương cùng trải nghiệm thực địa đã giúp anh kiến tạo một “hệ sinh thái” Tây Bắc của riêng mình, trở thành tấm thẻ thông hành để bước vào không gian văn học đương đại với tâm thế tự tin.
Thứ hai, đọc truyện ngắn Nguyễn Phú, có thể nhận ra một hệ sinh thái tự nhiên đậm chất vùng cao. Đầu tiên là các địa danh, vùng đất: Sủ Thèn Pả, Mẻo Vản, Há Chảng, Nho Quế, Hồ Thầu, Sán Chải, Lủ Hồ Nhì, Chúng Vả, Túng Cáng, Thèn Khấu, Na Pao, Tà Chảng, Sa Pả, Tà Chải, Nậm Dế, A Pa Chải, Khoan La San, Pờ Nhù Khồ, Tả Cháng, Sán Sả Hồ, A Mu Phìn, Nậm Chải, Vần Chín, Thông Chải, Mèo Vản…; tiếp đến là cảnh quan, cây cỏ, đồ vật đặc thù: pằng nảng, lê, mận, tầm gửi, kim lăng, lanh, sa mộc, quẩy tấu, mèn mén, áo chàm, kiềng bạc…
Nhưng nếu thế thì chỉ cần nhìn bản đồ hoặc tra trên sách văn hóa tộc người là có thể chép ra được. Vấn đề ở đây là, Nguyễn Phú không miêu tả bối cảnh như phông nền thuần túy, mà như một thực thể sống động, thấm đẫm trong đời sống thường ngày và tâm hồn nhân vật. Đến lượt mình, nhân vật lại hít thở, lại nhìn ngoại giới trong không gian văn hóa ấy.
Nhìn từ khía cạnh này, có thể nhận thấy, Nguyễn Phú có những trang miêu tả thiên nhiên, khung cảnh thật hay, mặc dầu, thế mạnh này không được anh thực sự gia công trong mỗi truyện: “Vậy là một mùa xuân nữa lại về. Hoa đào đã lấm tấm đỏ. Mấy cây lê, cây mận quanh nhà như những cây tuyết trắng muốt. Rừng sa mộc trên đồi đội triệu triệu hạt sương, đứng im lìm thành đội quân trùng điệp. Mưa xuân bay bay ngoài mái hiên. Từng đợt gió âm ấm tràn về (…) Gió xuân ấm áp. Những sợi nắng vàng rải xuống núi đồi, nương ruộng ngày càng nhiều hơn. Cỏ mơn mởn cong lên chờ mưa. Lá cây rừng mỡ màng, căng tràn sức xuân. Nhà nhà chuẩn bị vào mùa đốt nương tra hạt” (Trăng non treo đỉnh núi); “Gió ấm tràn về khắp các sườn núi. Mận, mơ rắc lấm tấm nụ nõn trên những nhánh khô gầy. Cải ngồng vàng rực, bung nở như pháo hoa. Vợ chồng các loài chim rừng gọi nhau về gần người làm tổ. Trong gác bếp các nhà thơm mùi thịt nai, sóc khô. Suốt ngày đêm rượu chảy tí tách từ ống trúc vào các chum sành, hương men lá làm đàn ông cho lẫn đàn bà chuếnh choáng” (Gương cầu); “Những ngày đông giá buốt cũng đã qua lâu. Mùa xuân đang mơn mởn, chín nẫu, người trong vùng đi chơi chợ, chơi hội tưng bừng lắm. Cỏ cây căng mình reo vui đón nắng. Mùa tình đã về trên khắp các thảo nguyên. Tiếng khèn, tiếng kèn lá, tiếng hát giao duyên lúc bổi hổi, khi bẽn lẽn lẫn vào trong gió ấm” (Con bê lông vàng)…
Thứ ba, truyện ngắn Nguyễn Phú hướng tới những khoảnh khắc chạm đến lòng người. Nhà văn ý thức rất rõ, câu chuyện của văn chương, suy cho cùng là câu chuyện thân phận con người.
Thế là, Dúa, Phừ, Sân, Mây, Chớ, Cáy, Chúa, Mua, Páo, Lanh, Mẩy, Lử, Mây, Răm, Chẳm, chuyện người Tày, Hà Nhì, Mông… cứ thế nhô ra từ đá núi. Nhân vật của Nguyễn Phú ai nấy đều có đời sống nội tâm phong phú. Nói khác đi, viết về nhân vật người đồng bào, anh nội tâm hóa họ, để mỗi người trong đó, đều có một đời sống tình cảm riêng.
Không phải ngẫu nhiên, Nguyễn Phú thường sử dụng kiểu lời nửa trực tiếp, gợi cảm giác nhân vật đang nói, chứ không phải nhà văn nói hộ. Dường như nhân vật nào của anh cũng chìm đắm trong những suy nghĩ miên man về thế giới xung quanh, về người mình yêu, mình thương nhớ: “Có mà dám! Nghĩ thế rồi cầm bát rót tiếp. Uống cho quên hết đi. Nhưng sao càng uống càng tỉnh thế này? Lòng dạ chứa cả đám dây rừng rối bời, nhằng nhịt. Chả biết làm sao mà gỡ ra được.
Thế mà người ta còn cứ muốn làm cho nó rối thêm là sao? Buồn quá mà! Đấy là trong đám cưới con nhà Khái ba hôm trước. Lúc Cáy mới ngồi vào mâm, cái thằng mặt gà chọi cầm chén sang mời cả mâm, rồi lại chúc riêng Cáy… Nói xong vác cái mặt đểu đi thẳng sang mâm khác. Cáy chỉ muốn hắt cả chén rượu vào mặt nó. Nhưng làm thế thì nói được ai…” (Ngôi nhà trên dốc gió); “Sình đang ở đâu? Câu hỏi ấy không biết bao nhiêu ngàn lần bà tự hỏi rồi tự trả lời. Lẽ nào Sình đã quên? Hay Sình đã chết? Nếu lão còn sống thì sao không tìm về với bà? Lẽ nào một người có thể ăn lá ngón vì không được ở cùng bà lại dễ quên vậy sao? Không đâu, nhất định một ngày lão sẽ trở về để nói cho bà biết bao năm qua lão ở đâu, lão đã nghĩ gì, lão đã làm ra được bao nhiêu con bò…” (Phiên chợ cuối cùng)…
Có thể xem, nhân vật của Nguyễn Phú là kiểu nhân vật - số phận. Hầu hết những người tốt trong truyện ngắn Nguyễn Phú đều có số phận bi thảm. Điều này khiến truyện của anh luôn gợi dư âm tiếc nuối, xót xa, đồng thời giúp nhà văn tránh mô hình “happy end” hoặc màu sắc tuyên huấn.
Truyện ngắn miền núi Nguyễn Phú có rất ít nhân vật người vùng xuôi, người Kinh. Nhân vật kết đọng chủ yếu trong thế giới của người thiểu số. Cái sống, cái chết của họ gắn với thảo nguyên, núi đồi, gắn với không quyển văn hóa đặc thù. Những kẻ muốn vượt ra ngoài bằng mọi giá, thường đánh mất bản chất tốt đẹp của mình.
Viết về miền núi, Nguyễn Phú chăm chú quan tâm thân phận người đàn bà vùng cao với những góc khuất cuộc đời. Có một điều đặc biệt là, nhân vật người đàn bà của Nguyễn Phú ai cũng khao khát yêu đương, nhưng dường như ai cũng dở dang, mất mát, bất hạnh khổ đau: đợi chờ vô vọng đến già, trong khi kẻ kia biến thành một người xoàng xĩnh bởi những lí do không đâu (Sỏa trong Phiên chợ cuối cùng), người yêu chết (Nhiên trong Trăng trôi chân cầu), chồng chết (Máy trong Con bê lông vàng), bị người yêu phản bội, lừa gạt (Dúa trong Hoa pằng nảng rơi rơi, Mây trong Trăng non treo đỉnh núi), bị chồng nghi ngờ, hành hạ (Chẳm trong Trăng non treo đỉnh núi), không thể sinh con (Chớ), vì hoàn cảnh phải phụ tình, phải chuốc lấy khổ đau (Si trong Lá chao đỏ), vì tham vọng, trở nên tha hóa, ê chề (Vì trong Gương cầu).
Nhân vật của Nguyễn Phú, cả nam hay nữ đều là những người si tình, xem tình yêu, xem người mình yêu là lẽ sống. Họ yêu thương tột cùng và thủy chung đến xót xa. Mô típ bất hạnh ở đây chủ yếu không nằm ở chuyện cái đói, miếng ăn, tập tục, chuyện xã hội, mà xoay quanh câu chuyện tình yêu, tình chồng vợ: yêu nhau mà không lấy được nhau, vợ chồng không được ở bên nhau.
“Chừ à, có phải chồng sắp về không?”; “Chừ à, có phải chồng đấy không? - Máy gào lên. Máy đuổi theo, khi gần chạm được vào màu xanh thì con bê vụt biến thành Chừ. Đứng dưới gốc cây sổ, Chừ như đang ở đó từ lâu lắm rồi để đợi Máy cùng xuống chợ phiên. Máy lao đến… Chớp mắt, Chừ và cả cây sổ chi chít quả tan loãng thành một luồng khói bay đi. Ú ớ gọi Chừ, giật mình, Máy biết mình mơ” (Con bê lông vàng); “Từ lâu, lâu lắm rồi, dễ đến mười năm, hai mươi năm, hay xa hơn nữa, trong những ngày xuân, người khắp vùng này đã quá quen với hình ảnh người đàn bà buổi sáng dắt con bò tơ xuống các chợ, buổi chiều lại dắt chúng ngược núi… Mỏi chân, bà Sỏa buộc bò vào gốc táo dại ven đường. Lẩn trong những phiến đá xanh, hoa táo đã lấm tấm trắng… Sình đang ở đâu? Lẽ nào Sình đã quên? Hay Sình đã chết? Nếu lão còn sống thì sao không tìm về với bà?” (Phiên chợ cuối cùng)...
Thứ tư, truyện ngắn Nguyễn Phú chủ yếu được viết theo thi pháp truyền thống. Sức hấp dẫn của nó nằm ở câu chuyện, tình tiết, văn phong tinh tế và lối kể dung dị, tự nhiên. Nhiều truyện của anh có những tìm tòi mới trong giọng điệu và ngôn ngữ.
Nguyễn Phú không cố bắt chước cách nói của người đồng bào, mà anh đóng vai người kể chuyện thạo lòng người, do thế, lời thoại, lời kể không trở nên ngô nghê, gượng gạo. Truyện ngắn Nguyễn Phú mang một giọng điệu man mác u sầu, đôi khi se sắt hoang vắng như tiếng khèn gọi bạn tình trong đêm sương.
Sức hấp dẫn trong truyện ngắn Nguyễn Phú một phần bắt nguồn từ chất thơ được gợi lên qua cách đặt tên nhan đề gợi hình, gợi cảm, giàu âm điệu (Hoa pằng nảng rơi rơi, Ngôi nhà trên dốc gió, Trôi trong suối lạnh, Trăng trôi chân cầu…), qua miêu tả tinh tế thiên nhiên và sự khéo léo xen cài trong lời văn lối nói, ca dao, tục ngữ, lời hát giao duyên của người thiểu số.
Nguyễn Phú có những truyện ngắn hay, hiện đại về kỹ thuật, như Gương cầu hay Con bê lông vàng. Ở đó, tính sự kiện được làm mờ. Tác giả sử dụng hình thức trần thuật từ điểm nhìn bên trong, gắn với dòng hồi tưởng. Câu chuyện quá khứ - hiện tại xen kẽ luân phiên hấp dẫn. Lối kết mở khiến truyện trở nên mơ hồ, giàu sức gợi.
So sánh một chút, có thể nhận ra, nếu truyện ngắn miền núi của Tống Ngọc Hân, Chu Thị Minh Huệ thiên về “sự kiện” thì truyện ngắn Nguyễn Phú lại cùng tông với Phạm Duy Nghĩa ở chất tự sự - trữ tình.
Có thể khẳng định, Nguyễn Phú là một trong số ít các tác giả thế hệ 8x viết thành công về đề tài miền núi. Sáng tác của anh thể hiện sự hiểu biết thấu đáo và cái nhìn nhân bản về đất và người vùng cao.
Truyện ngắn Nguyễn Phú quan tâm câu chuyện con người miền núi trong bối cảnh đương đại, những xung đột về văn hóa, lối sống, nhưng tập trung hơn vào các chiều cạnh bi kịch của tình yêu và thân phận con người. Nhân vật của Nguyễn Phú luôn sống tận cùng với tình yêu nhưng cũng tận cùng đau khổ vì tình yêu ấy. Đó là lí do, gấp lại trang sách của anh, độc giả luôn có cảm giác xót xa, nuối tiếc, vọng động nhớ thương.
Đọc xong truyện ngắn Nguyễn Phú, thấy nhân vật của anh lẩn quẩn đâu đó rất lâu trong trí tưởng, ám ảnh không chịu rời đi. Đó là thành công, đồng thời cũng là dấu ấn truyện ngắn miền núi Nguyễn Phú trong đời sống văn chương đương đại.