Hành trình đổi mới của người Mông nơi phên giậu Tổ quốc
VHO - Từ những bản làng “bốn không” heo hút nơi rẻo cao mù sương, đồng bào Mông ở Ché Lầu, Mùa Xuân, Xía Nọi, Suối Tôn (Thanh Hóa) hôm nay đã có điện sáng, đường bê tông, con chữ hiện hữu trong từng mái nhà và tiếng cười trẻ thơ rộn rã trên sân trường mới...

Đó không chỉ là hành trình nối miền ngược với miền xuôi, mà còn là hành trình của khát vọng vươn lên từ những bàn tay chai sạn và trái tim đầy nghị lực.
Từ gian khó bước ra ánh sáng
Mười cây số là khoảng cách từ trung tâm xã Na Mèo tới bản Ché Lầu, nhưng thực tế từng là nửa ngày trời vật lộn với núi, với suối, với trơn trượt và có khi là cả sinh tử mới đến được đích. Trẻ con đi học lấm lem bùn đất. Người bệnh thì chỉ còn biết trông trời.
Xưa, bản Ché Lầu là một thế giới riêng biệt giữa đại ngàn. 65 hộ người Mông sống trong điều kiện thiếu thốn cùng cực. Không điện, không nước sạch, không đường, không sóng điện thoại. Một chiếc đinh sắt cũng quý như vàng, một vỉ thuốc cảm cũng phải cõng từ ngoài huyện vào. Và rồi, mọi thứ đổi thay bắt đầu từ con đường bê tông hơn 5 km nối bản Son lên Ché Lầu bằng nguồn vốn Chương trình 30A của Chính phủ, chẳng khác gì “huyết mạch” đầu tiên mở ra cho vùng đất còn như ngủ quên ấy.
Đường thông, điện sáng, ô tô vào được tận nhà dân. Cái khó bị đẩy lùi. Những nếp nhà xập xệ lần lượt thay bằng nhà kiên cố. Những đôi chân trần giờ đã biết bon bon xe máy ra xã, lên huyện. “Trước đây, trời mưa là cả bản bị cô lập. Nay, cổng nhà mình cũng có hàng rào, có đèn, trẻ con đi học không lo lầy lội”, ông Thao Văn Lâu, Bí thư kiêm Trưởng bản kể trong tiếng đứa cháu nội ê a tập đánh vần bên góc sân.
Không chỉ Ché Lầu, ở bản Mông khác là Suối Tôn (xã Phú Lệ), những đổi thay cũng đến đầy thuyết phục. Gần 10 năm trước, con đường vào bản nhỏ, hẹp, dốc hiểm trở. Nhưng nay, đường bê tông đã trải vào tận cửa nhà. Bà S.T.C., một trong những cư dân đầu tiên của Suối Tôn chia sẻ: “Năm 1999, tôi cùng gia đình từ Sơn La về đây lập nghiệp, lúc đó khổ lắm. Nay, trẻ con được học hành tử tế, nhà nào cũng có điện, tôi mừng lắm”.
Người Mông ở Suối Tôn có thói quen định cư ven suối, nên cư dân chia làm bốn cụm quanh bốn dòng suối nhỏ. Trong 10 năm qua, nhờ sự quan tâm của tỉnh, sự chủ động của huyện, xã và tinh thần vươn lên không chờ đợi của người dân, bản Suối Tôn ngày càng khởi sắc.
Điểm trường mầm non, tiểu học được xây dựng khang trang bằng ngân sách Nhà nước và xã hội hóa. Từ chỗ chỉ trông vào rừng và làm nương, nay bà con đã biết trồng lúa nước, đưa cây gai xanh vào sản xuất, bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt.
Đến Suối Tôn hôm nay, dễ dàng nhận ra bản có thêm nhiều ngôi nhà mới khang trang. Năm 2022, bản có 3 ngôi nhà từ chương trình Nhà Đại đoàn kết; năm 2023, thêm 16 ngôi nhà nữa được sửa chữa, xây dựng nhờ chính sách hỗ trợ người nghèo vùng đặc biệt khó khăn. Đường thông, đồng nghĩa với cuộc sống mở ra. Những chuyến xe hàng nối đuôi nhau mang đến không chỉ thực phẩm, vật liệu xây dựng mà cả tri thức, kỹ thuật canh tác và cơ hội sinh kế bền vững cho đồng bào.
Chúng tôi ghé nhà anh Thao Văn Thê ở bản Ché Lầu vào một buổi chiều tháng 8. Mảnh vườn trước nhà rực lên màu xanh của vầu, khoai mán..., tiếng bò kêu vọng về từ chân núi. “Năm nay nhà mình có 10 con bò, gần 2 ha vầu, sắn, khoai. Có lúc thu nhập lên đến 50-60 triệu đồng. Mình để dành cho con đi học, có đứa sắp vào lớp nghề rồi”, anh vừa kể vừa không ngừng lật đất trồng thêm rau xanh bên bờ suối.
Không riêng gia đình anh Thê, nhiều hộ Mông ở Ché Lầu, Mùa Xuân, Xía Nọi, Suối Tôn nay đã tự chủ kinh tế bằng chính ruộng vườn, chuồng trại của mình. Từ khi có đường, giống tốt, phân bón, thuốc thú y không còn là thứ xa xỉ.
Ở bản Mùa Xuân, chị T.V.N. nổi tiếng là người “dám nghĩ, dám làm”. Không chỉ trồng rau trái vụ, chị còn học ủ rượu men lá, thứ rượu đậm hương núi rừng mà người Mông coi như thức quà truyền thống. “Khách xuống bản hỏi mua rượu về làm quà. Mình còn ghi nhãn, chụp ảnh sản phẩm gửi Zalo cho khách đặt”, chị cười tươi, khoe chiếc điện thoại luôn “đầy đơn hàng”.
Bản làng không còn ngủ quên
Sự hồi sinh của vùng cao xứ Thanh hôm nay không chỉ là kết quả của những con đường hay dự án “đổ tiền” xuống bản. Điều khiến cuộc sống thực sự đổi thay, là khi người dân xem đó là cơ hội, chứ không là ân huệ.
Tỉnh Thanh Hóa, nơi có hơn 3.600 hộ người Mông sinh sống đã thực hiện hàng loạt chương trình phát triển như 134, 135, 30A, 167 và các đề án đặc thù cho từng huyện vùng cao. Tuy nhiên, thay vì chỉ “trao cần câu”, các địa phương đang dần trao luôn cả kỹ năng câu cá và thị trường tiêu thụ.
Chính quyền xã Sơn Thủy, Na Mèo, Phú Sơn (nay là xã Phú Lệ) liên tục mở các lớp kỹ thuật nông nghiệp, chăn nuôi. Từ giống lúa Nhật J02 đến mô hình trồng vầu, nuôi lợn nái, bò sinh sản, đều được đưa vào áp dụng với quy mô gia đình. Hộ nào cũng có sổ ghi chép, học cách hoạch toán lỗ lãi, làm vườn, nuôi con, giữ văn hóa...
“Chúng tôi xác định mỗi gia đình là một đơn vị kinh tế. Có ổn định gia đình thì bản mới bền vững”, ông Mạc Văn Tới, Chủ tịch UBND xã Sơn Thủy chia sẻ. Hạ tầng đến đâu, tư duy đổi thay đến đó. Những mái nhà Mông nay có thêm sân phơi sạch sẽ, cổng ngõ chỉn chu. Đêm xuống, ánh điện hắt ra từ cửa sổ, nơi có những em bé đang ê a học chữ...
Trong hành trình phát triển của một vùng quê, có những thứ đổi thay từng ngày - như những ngôi nhà, con đường, ánh điện. Nhưng cũng có những thứ đổi thay âm thầm, bền bỉ hơn, đó là lòng tin, là nghị lực, là khát vọng vươn lên từ trong chính mỗi gia đình người Mông. Ché Lầu, Suối Tôn, những nơi từng là bản nghèo nhất xã, giờ đã có giấc mơ riêng, những giấc mơ bén rễ từ đất và được tưới tắm bằng mồ hôi của những con người không chịu khuất phục trước gian khó.
Một ngày nào đó, những bản Mông ấy sẽ đón khách du lịch, sẽ có homestay, có hàng bán rượu men lá, váy áo Mông thêu tay, có tiếng khèn, tiếng sáo ngân vang. Nhưng có lẽ, điều quý giá nhất mà mảnh đất này giữ được, chính là sự ấm áp trong từng mái ấm, nơi người Mông không chỉ sống, mà đang hạnh phúc.