Chùa Keo – Di sản kiến trúc độc nhất vô nhị và kho tàng bảo vật quốc gia giữa lòng đồng bằng Bắc Bộ
VHO - Tọa lạc trên vùng đất bằng phẳng, rộng rãi và thoáng mát của xã Vũ Tiên, tỉnh Hưng Yên (trước đây thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), chùa Keo (Thần Quang Tự) từ lâu đã nổi danh là một trong những ngôi chùa cổ đặc sắc của Việt Nam.
Dòng sông Hồng nghìn đời cuộn chảy bồi đắp phù sa, nuôi dưỡng mùa màng và cư dân trù phú đã tạo nên cảnh quan hữu tình bao quanh ngôi chùa. Với giá trị nổi bật về lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật, chùa Keo đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt năm 2012.

Nghệ thuật kiến trúc mẫu mực, đỉnh cao
Chùa Keo Thái Bình là mẫu mực của nghệ thuật kiến trúc đỉnh cao thế kỷ XVII, hiện lưu giữ 17 công trình với 128 gian hoàn toàn làm bằng gỗ lim. Các công trình được bố trí trên một trục thần đạo – đường thẳng nối từ tam quan ngoại đến gác chuông, tạo nên sự đối xứng và hài hòa hiếm có.
Theo sử sách và văn bia, chùa Keo gốc được xây dựng từ thế kỷ XI bởi Đức Thánh Vương Không Lộ Thiền Sư. Đến đầu thế kỷ XVII, sau trận đại hồng thủy, Quận công Hoàng Quân Dũng đã đứng ra huy động tài lực, nhân lực suốt 19 năm để xây dựng lại chùa Keo như hiện nay.
Tổng thể chùa được kiến tạo theo mô thức “nội công ngoại quốc” và “tiền Phật hậu Thánh”, đặc biệt là cách bố cục hai chữ "Công" lồng trong chữ "Quốc" độc đáo, tạo sự trang nghiêm nhưng vẫn mềm mại, uyển chuyển.
Chùa Keo là minh chứng rõ nét cho tư duy kiến trúc – mỹ thuật – kỹ thuật của cha ông gần 400 năm trước. Hệ thống mộng – kèo được liên kết chính xác tuyệt đối, tạo nên quần thể kiến trúc hoàn mỹ không dùng một chiếc đinh.

Theo tài liệu lưu trữ, chùa Keo được xây dựng trong hơn 21 năm, trong đó có 28 tháng thi công chính, với sự góp sức của hàng trăm thợ mộc, thợ nề, và cộng đồng dân làng.
Điểm nhấn đặc biệt của quần thể di tích là tòa gác chuông cao 11,04m với ba tầng mái nâng đỡ bởi những con sơn chồng lên nhau như một bông sen khổng lồ. Bộ khung gỗ lim liên kết hoàn toàn bằng mộng, nâng đỡ 12 mái ngói và 12 đao cong thanh thoát.
Gác chuông treo 03 quả chuông cổ và 01 khánh đá, được xác lập kỷ lục Guiness Việt Nam – gác chuông gỗ cổ cao nhất Việt Nam.

Bên cạnh đó, giếng đá cổ với 36 cối đá thủng xếp vòng quanh miệng giếng cũng là dấu tích đặc biệt, tương truyền là những chiếc cối dùng để giã gạo nuôi thợ xây chùa.
Không chỉ nổi bật với kiến trúc, chùa Keo còn lưu giữ 197 di vật – cổ vật, trong đó có hai bảo vật quốc gia vô cùng giá trị là hai cánh cửa chạm rồng và hương án.
Bộ cánh cửa ở gian giữa tam quan nội, khi khép lại tạo thành bức phù điêu “lưỡng long mẫu tử chầu nguyệt”, là tuyệt tác mỹ thuật thời Lê Trung Hưng.
Những nét đao mác vút lên, các đường chạm rồng mềm mại thể hiện kỹ nghệ điêu khắc bậc thầy của những người thợ thủ công cách đây gần 400 năm.

Một di sản đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia năm 2021 tại chùa Keo là Hương án (Nhang án).
Hương án được tạo tác thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17, làm bằng gỗ quý.
Hương án có kích thước khá lớn, dài 227cm, rộng 156cm và cao 153cm. Trên phần mặt, thân và chân hương án, nghệ nhân xưa dày công tuyệt tác với trình độ hoàn hảo, công phu. Nhiều chi tiết chạm khắc phức tạp, tỉ mỉ nhưng hài hòa, đối xứng, thể hiện sự tuân thủ nghiêm cẩn đề tài thiết kế của nghệ nhân điêu khắc gỗ.


Pho tượng Tuyết Sơn – kiệt tác đang đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia
Một di vật đặc biệt khác đang được lập hồ sơ đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia là tượng Tuyết Sơn – pho tượng mô tả Đức Phật Thích Ca tu khổ hạnh trong 7 năm trên núi tuyết.
Điểm nổi bật nhất của tượng là hình thức mô phỏng Đức Phật Thích Ca trong thời kỳ tu khổ hạnh kéo dài 7 năm trên núi Tuyết. Đây là giai đoạn Ngài từ bỏ mọi tiện nghi vật chất, chỉ ăn lá cây, uống sương đọng để tìm con đường giải thoát.
Chính vì vậy, tượng mang vóc dáng một thân thể gầy kiệt: Xương sườn và xương ngực lộ rõ, tạo nên cảm giác khắc khổ nhưng không bi lụy.
Hai hốc mắt sâu, ánh nhìn hướng xuống đầy chiêm nghiệm. Gò má cao, khuôn mặt xương xẩu nhưng ánh lên sự thanh tịnh. Bụng hóp, các nhóm cơ như co lại, mô tả chính xác trạng thái thể chất cạn kiệt vì tu hành. Bàn tay khẳng khiu, ngón tay dài mềm mại, thể hiện sự tĩnh tâm và trí tuệ.



Các đường nét trên tượng mang phong cách điêu khắc chân thực, hội tụ nhân sinh quan, nhân trắc học cổ và giá trị nghệ thuật độc bản – minh chứng cho tài nghệ của nghệ nhân xưa.
Pho tượng Tuyết Sơn tại chùa Keo là một trong những tác phẩm nghệ thuật tôn giáo đặc biệt nhất còn lại của nghệ thuật Phật giáo Việt Nam thế kỷ XVII. Tượng được tạc bằng gỗ mít – chất liệu bền, nhẹ, có khả năng chống mối mọt tốt – sau đó được phủ nhiều lớp sơn ta theo phương pháp thủ công bí truyền.
Lớp sơn cổ phủ trên tượng được chế tác từ năm vật liệu dân gian gồm giấy bạc, nước vôi trong, bồ hóng, mật mía, tro đốt từ rơm rạ – theo bí truyền tạo ra lớp sơn cho tượng. Những vật liệu này trộn theo tỷ lệ bí truyền, tạo ra lớp sơn bền, thấm sâu vào gỗ, giúp tượng gần 400 năm tuổi nhưng vẫn giữ được sắc trầm cổ kính.


Theo hướng dẫn viên tại Di tích quốc gia đặc biệt chùa Keo Nguyễn Thị Duyên chia sẻ, điểm đặc biệt khác là tinh thần tượng: không chỉ mô tả hình tướng khổ hạnh, tượng còn toát lên ánh sáng nội tâm, vẻ đẹp của trí tuệ đang dần khai mở.
Đây chính là yếu tố khiến pho tượng có giá trị lớn về nghệ thuật, triết học và tâm linh – xứng đáng được lập hồ sơ đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia.
Giữa nhịp phát triển sôi động của vùng quê Thái Bình xưa, Hưng Yên nay, chùa Keo vẫn đứng đó như một chứng nhân tĩnh tại, lưu giữ những tầng trầm tích văn hoá của hàng trăm năm lịch sử.
Trao quyết định công nhận Hương án chùa Keo là Bảo vật quốc gia
Từ tiếng chuông ngân trên gác cổ, dáng mái cong soi bóng xuống hồ nước đến ánh nhìn trầm tư của pho tượng Tuyết Sơn, tất cả tạo nên một không gian thiêng mà mỗi bước chân qua đều thấy lòng mình lắng lại.
Và chính trong khoảnh khắc chạm vào những giá trị ấy – nhờ sự dẫn dắt tận tâm của những người gìn giữ di sản ở nơi đây, nhờ những câu chuyện họ kể và những di sản họ gìn giữ – mỗi du khách như được mở ra một cánh cửa mới: cánh cửa bước vào thế giới tinh hoa kiến trúc, điêu khắc và minh triết Phật giáo Việt Nam.

RSS