Cần hoàn thiện khung pháp lý cho hợp tác công - tư văn hóa
VHO - Cuộc tọa đàm về Công nghiệp văn hóa thành phố lần thứ hai với chủ đề “CultureTech và Hợp tác công - tư trong bảo tồn và lan tỏa di sản văn hóa”, vừa diễn ra tại Trung tâm Khởi nghiệp Sáng tạo TP.HCM (SIHUB), với sự quy tụ của nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp sáng tạo, nghệ sĩ và đại diện cơ quan nhà nước, nhằm tìm kiếm những giải pháp thực tiễn để đưa di sản Việt Nam trở nên sống động, gần gũi với giới trẻ và cộng đồng quốc tế.

Chia sẻ tại tọa đàm, đạo diễn Nguyệt Quế, Ceo SANTANI và sáng lập dự án “Sắc màu di sản” cho rằng, Việt Nam hoàn toàn có khả năng làm tốt các mô hình văn hóa số như nhiều nước, nhưng khoảng cách thế hệ đang là rào cản lớn. Thế hệ trước nắm giữ nhiều tri thức và tư liệu, trong khi người trẻ sử dụng ngôn ngữ, công nghệ và phương thức tiếp nhận khác biệt. Theo bà Quế, truyền thông là điểm nghẽn khiến nội dung văn hóa khó chuyển đổi từ không gian truyền thống sang nền tảng số.
Giải bài toán “truyền nhưng chưa thông” trong chuyển đổi số văn hóa
Từ thực tế ấy, dự án “Sắc màu di sản” được hình thành với sự hỗ trợ của SIHUB và nằm trong nhóm tăng tốc về công nghiệp văn hóa (CNVH) của TP.HCM. Dự án hướng đến phát triển nền tảng dựa trên trải nghiệm thực tế, kết nối di sản với người trẻ thông qua công nghệ. Bà Quế cho biết, ngay cả các tài liệu truyền thông của dự án cũng đã ứng dụng AI, coi đây là xu hướng tất yếu; song “công nghệ mạnh đến đâu cũng không thay thế được bản sắc”. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng là tạo cơ chế để tư duy sáng tạo của người trẻ được kế thừa có hệ thống từ thế hệ đi trước.
“Sắc màu di sản” phát triển từ chuỗi hoạt động ẩm thực “Mỹ vị Việt Nam”, coi ẩm thực là điểm chạm dễ tiếp cận nhất để thu hút giới trẻ và gia đình đến các sự kiện offline. Từ đó, dự án lồng ghép nội dung văn hóa, như Chợ Lớn Food Story, trình diễn nghệ thuật truyền thống, giao lưu nghệ sĩ, các trò chơi dân gian nhằm nuôi dưỡng sự quan tâm với di sản.
Đạo diễn Nguyệt Quế cho biết, phiên bản thứ hai của “Sắc màu di sản” là một nền tảng số dự kiến công bố ngày 22.11 nhân Ngày Di sản văn hóa Việt Nam. Nền tảng này cho phép doanh nghiệp và người trẻ giới thiệu sản phẩm, kết nối địa điểm di sản và trải nghiệm văn hóa. Dự án phối hợp Trường ĐH Khoa học Tự nhiên phát triển công nghệ trình diễn đèn lồng Hội An bằng tranh thủ công trong không gian số, đồng thời tiếp tục số hóa các không gian trưng bày, trong đó có triển lãm “Đồng tiền Việt Nam, hành trình theo dòng chảy lịch sử” tại Ngân hàng Nhà nước.
Theo bà Quế, “sắc” là bản sắc mỗi người, “màu” là sự tinh tế được bồi đắp qua sáng tạo, còn “di sản” là nền tảng để phát triển. Dự án “Sắc màu di sản” hướng tới đưa di sản Việt Nam ra thế giới bằng ứng dụng 3D, công nghệ trình diễn và các hoạt động tương tác. Kỳ vọng có thể trở thành “cánh tay nối dài” cho các bảo tàng và điểm đến văn hóa, góp phần thương mại hóa các sản phẩm văn hóa để tái đầu tư cho bảo tồn.

Bảo tàng và áp lực chuyển đổi số
TS Phạm Ngọc Uyên, Phó Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM cho biết, thành phố hiện có 24 bảo tàng, gồm 13 bảo tàng công lập và 11 ngoài công lập, với chức năng trải rộng từ lịch sử, mỹ thuật đến các chuyên đề. Đây là hệ thống thiết chế quan trọng, vừa lưu giữ di sản vừa là không gian học thuật, giáo dục và giao lưu văn hóa. Tuy vậy, các bảo tàng vẫn đối mặt nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, nhân lực, cơ chế quản lý và khả năng tiếp cận công chúng trong bối cảnh chuyển đổi số.
Di sản văn hóa đang chịu áp lực lớn từ sự xuống cấp tự nhiên, nguy cơ mai một giá trị phi vật thể và sự thay đổi trong hành vi tiếp nhận của công chúng. Trong khi đó, công nghệ số AI, VR/AR, blockchain, dữ liệu lớn mở ra cơ hội mới cho bảo tồn và truyền thông văn hóa. Sự kết hợp giữa văn hóa và công nghệ hình thành hướng tiếp cận CultureTech, cho phép bảo tồn bằng công cụ hiện đại và lan tỏa di sản rộng rãi hơn. Tuy nhiên, phát triển CultureTech không thể chỉ dựa vào ngân sách nhà nước. Mô hình hợp tác công - tư (PPP) được xem là cơ chế khả thi để huy động vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản trị từ khu vực tư nhân, trong khi nhà nước giữ vai trò định hướng và đảm bảo giá trị văn hóa.
Thực tiễn tại TP.HCM cho thấy quá trình số hóa bảo tàng mới ở giai đoạn đầu, nguồn lực đầu tư hạn chế; nhân lực thiếu kỹ năng công nghệ; nội dung số còn đơn giản; dữ liệu chưa được chuẩn hóa; khả năng thu hút công chúng trên nền tảng số còn thấp; mô hình PPP đang thiếu hành lang pháp lý rõ ràng. Đây là những rào cản khiến nhiều dự án chỉ dừng ở mức “ứng dụng công nghệ” chứ chưa đạt tới “chuyển đổi số” toàn diện.
CultureTech, nếu triển khai đúng hướng, sẽ trở thành công cụ bảo tồn hiệu quả, từ số hóa 3D hiện vật đến lưu giữ di sản phi vật thể, đồng thời tạo kênh lan tỏa mạnh mẽ qua VR/AR, nền tảng trực tuyến, bảo tàng ảo. Mô hình PPP đóng vai trò then chốt, khi nhà nước, doanh nghiệp, giới nghiên cứu và cộng đồng cùng tham gia vào quá trình bảo tồn, sáng tạo, khai thác giá trị di sản.
Để phát triển bền vững, cần hoàn thiện khung pháp lý cho PPP văn hóa, xây dựng cơ sở dữ liệu di sản quốc gia, đầu tư hạ tầng số, phát triển nhân lực liên ngành và tăng cường hợp tác quốc tế. CultureTech không chỉ giúp di sản “sống” trong không gian số mà còn mở đường cho kinh tế di sản, đóng góp vào công nghiệp văn hóa và tri thức của Việt Nam.
Thiếu “nhạc trưởng” hệ sinh thái CNVH
TS Trịnh Đăng Khoa, Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH Văn hóa TP.HCM, nhấn mạnh muốn phát triển CNVH cần nhìn đúng hệ sinh thái ngành. Hệ sinh thái này gồm ba nhóm chủ thể: Người sáng tạo tác phẩm nghệ thuật; lực lượng tổ chức sản xuất, kinh doanh để đưa tác phẩm vào đời sống; nhóm quản trị tiêu dùng, phụ trách truyền thông, marketing, kích cầu, định hướng thị hiếu và xây dựng công chúng văn hóa. Việt Nam hiện đào tạo các mảng này nhưng các bộ phận đang tách rời, thiếu phối hợp.
Theo chuyên gia, nhược điểm lớn là thiếu lực lượng “điều phối”, những người quản trị văn hóa nghệ thuật hiểu bản sắc dân tộc, nắm thị trường và kết nối sáng tạo, sản xuất, tiêu dùng. Đây là vị trí quyết định để vận hành hệ sinh thái và biến văn hóa thành ngành kinh tế thực thụ. Các trường nghệ thuật đào tạo tốt chuyên môn sáng tạo; khối kinh tế đào tạo marketing, quản trị; các trường văn hóa, xã hội đào tạo nghiệp vụ quản lý. Tuy nhiên, sinh viên thường chỉ giỏi đúng chuyên ngành, chưa có “nhạc trưởng” để phối hợp thành chuỗi giá trị hoàn chỉnh.
TS Khoa nhấn mạnh: “Chúng ta đang thiếu người quản trị văn hóa nghệ thuật, người có thể kích hoạt sáng tạo, thúc đẩy tiêu dùng, điều phối sản xuất và biến văn hóa thành nguồn thu”. TS Trịnh Đăng Khoa thông tin, Bộ GD&ĐT hiện đã có chính sách mở, cho phép các cơ sở giáo dục đề xuất mở mã ngành mới phù hợp với nhu cầu xã hội. Trường ĐH Văn hóa TP.HCM đang xây dựng đề án mở ngành Quản trị văn hóa - nghệ thuật, đào tạo nhân sự tích hợp kiến thức văn hóa, nghệ thuật, thị trường, kinh doanh và truyền thông, những yếu tố cốt lõi của công nghiệp văn hóa.
Trong khi chờ thủ tục mở ngành, các chuyên gia đề xuất giải pháp liên kết đào tạo, như tổ chức các “trại sáng tác liên trường” nhằm giúp sinh viên nghệ thuật, công nghệ và quản trị cùng trải nghiệm, hợp tác và hình thành tư duy liên ngành. Innoculture 2025 khẳng định di sản không chỉ là vật lưu giữ quá khứ mà còn là nền tảng để phát triển công nghiệp văn hóa, thúc đẩy sáng tạo, kết nối thế hệ trẻ và khai thác giá trị kinh tế. CultureTech và hợp tác công - tư là công cụ quan trọng, giúp di sản Việt Nam “sống” trên nền tảng số, tạo trải nghiệm mới, gần gũi và sinh động, đồng thời đặt nền móng cho cộng đồng sáng tạo văn hóa năng động, chuyên nghiệp tại TP.HCM.

RSS