Vận dụng văn hóa đức trị
VHO- Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, có hai phương pháp cai trị là “pháp trị và đức trị”. Cả hai phương pháp cùng tồn tại nhưng dường như khi kinh tế - xã hội phát triển càng cao thì pháp trị cũng càng được nâng cao. Điều đó thể hiện ngay trong lịch sử hiện đại của Việt Nam.
Sau Cách mạng Tháng Tám, chế độ phong kiến thực dân đã bị xóa bỏ, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp quay lại xâm lược nên Chính phủ phải chuyển về chiến khu trên vùng rừng núi để lãnh đạo kháng chiến.
Đồng bằng và đô thị nằm dưới sự kiểm soát của thực dân phong kiến nên hiến pháp của nhà nước non trẻ chỉ có thực quyền ở vùng tự do.
Ở vùng kháng chiến, hiến pháp mới thể hiện tính ưu việt của chế độ dân chủ nhân dân. Quyền bình đẳng được thực hiện triệt để, vai trò, vị thế xã hội của giai cấp nông dân, công nhân và nhân dân lao động được đề cao, không còn phân biệt đẳng cấp với địa chủ, phú nông. Các mối quan hệ xã hội ổn định, hầu như không có xung đột sắc tộc, giai cấp, tôn giáo và chưa có những tệ nạn xã hội của thành thị thực dân. Vì thế, vấn đề thực thi luật pháp chưa phải đề cao khẩu hiệu “sống và làm việc theo pháp luật”, nhưng mọi người vẫn tự giác “sống và làm việc theo các chủ trương, chính sách của Đảng và Bác Hồ” và hưởng ứng các cuộc vận động như: Phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ, kháng chiến kiến quốc mà không cần ban hành chỉ thị, sắc lệnh. Chỉ cần Bác Hồ kêu gọi và làm gương: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa là toàn dân hưởng ứng thành phong trào “hũ gạo nuôi quân”. Nhưng như thế không phải là buông lỏng luật pháp mà trái lại, đối với những kẻ phản dân hại nước như bọn Việt gian hay tham nhũng, vẫn bị pháp luật trừng trị rất nghiêm khắc như trường hợp phải thi hành án tử hình một cán bộ cao cấp trong quân đội phạm tội tham ô. Đó là văn hóa đức trị và pháp trị Hồ Chí Minh được kết hợp một cách biện chứng trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Khi Việt Nam chấp nhận nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế thì tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Đồng thời, mặt trái của kinh tế thị trường cũng phát triển rất phức tạp, kể cả sự du nhập lối sống ngoại lai và cạnh tranh không lành mạnh. Hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi, văn hóa đức trị dường như không còn đủ sức quản lý xã hội đa dạng và phức tạp. Do đó, “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” được đề cao - ngay cả trong Đảng cũng phải có “quy định cứng” về “những điều đảng viên không được làm”. Vậy “văn hóa đức trị” được vận dụng như thế nào?
Trên thực tế, cuộc sống xuất hiện rất nhiều trường hợp vi phạm pháp luật về nhiều mặt, nhất là kinh tế. Trong đó có tội danh: Lợi dụng “kẽ hở pháp luật” gây hậu quả nghiêm trọng. Có ý kiến cho rằng, pháp luật không có kẽ hở, chỉ là có hay không vi phạm? Tuy nhiên, còn có các khái niệm “hàng rào luật pháp” và “hành lang pháp luật”. Thậm chí có “khoảng trống pháp luật”. Vấn đề là do điều khoản cụ thể nào đó không phù hợp với đối tượng cụ thể cần ngăn chặn. Giống như nhốt con dê vào chuồng bò thì nó chui ra được là do chuồng bò có kẽ hở quá rộng so với nó.
Ngày nay, văn hóa đức trị chính là làm theo lời dạy của Bác Hồ: “Làm gì cũng phải hỏi dân và học dân nhưng không theo đuôi quần chúng…” để vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối và chống tham nhũng. Tuy nhiên, đức trị và pháp trị không hoàn toàn tách biệt mà ngay trong “pháp quyền XHCN” đã bao hàm yếu tố đức trị. Đó là bảo vệ quyền lợi cho người lao động lương thiện, trừng trị những hành vi phản nước, hại dân.
Văn hóa đức trị Hồ Chí Minh rất giản dị nhưng không dễ thực hiện vì những người lãnh đạo phải có nền tảng đạo đức lớn đến mức độ nhất định mới đủ khả năng vận dụng văn hóa đức trị hài hòa với pháp trị.
TS NGUYỄN HỮU NGUYÊN