Tự nhiên... Nhớ rừng
VHO- Nhà thơ Thế Lữ có bài Nhớ rừng, thác tâm sự của một chú hổ bị nhốt trong vườn bách thú: Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt/ Ta nằm dài xem ngày tháng dần qua/ Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ/ Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm… Tác giả khéo chọn không phải chim lồng cá chậu mà hổ sa cơ để thể hiện đến kỳ cùng nỗi uất ức, sự mất tự do cũng như khí phách oai hùng. Người Kinh tôn hổ là Chúa sơn lâm, tôn kính gọi là Ông Cọp, người thiểu số gọi là Bok Cọp.
Chuyện rằng, có nhà bảo vệ động vật hoang dã kia đến vườn bách thú. Lúc này, ông Cai vườn bách thú đang đau đầu vì vườn không chỉ có một, mà là cả cặp Hổ ông - Hổ bà ăn thịt bò nhiều gấp mấy chục lần con người.
Hai ông bỗng dưng nảy ra ý định thả hổ về rừng, vừa bảo vệ được động vật hoang dã lại vừa đỡ tốn tiền mua thịt, trong khi ngoài kia rất nhiều người không có thịt mà ăn. Đôi bên đồng thuận chuyển cặp hổ về lại núi rừng để “ông bà” tự nuôi sống và bảo tồn nòi giống.
Người ta đưa xe chở hai Chúa sơn lâm thả vào núi xong liền quay trở về, thở phào nhẹ nhõm. Ai ngờ chỉ đến sáng sớm hôm thứ ba, ông Cai vườn bách thú đã thấy Hổ ông, Hổ bà nằm dài ngay trước cổng. Ông Cai ngạc nhiên hỏi: Ông bà được tự do về rừng sướng quá rồi, sao còn quay lại để “gặm khối căm hờn trong cũi sắt” làm chi? Hổ ông ngáp dài: Ta tưởng cảnh rừng kiêu hãnh của ta còn nguyên, ai dè về không nhận ra nữa và cũng chẳng còn gì để ăn…
Tất nhiên, một phần câu chuyện chỉ là hư cấu, để thấy một khi đã phá rừng thì muốn phục hồi hệ sinh thái tự nhiên như nó vốn có chẳng hề dễ. Như ở đảo Lý Sơn ngày trước có cả rừng nguyên sinh, cây đại thụ, có cả suối nước gọi là suối Chình. Sau rừng bị phá, cây cối bị chặt, suối cũng chỉ còn là cái tên trong ký ức. Núi non trơ trụi, khí hậu Lý Sơn trở nên nóng bức và mất đi vẻ đẹp vốn có. Về sau, Lý Sơn nỗ lực trồng tái tạo cây rừng, nhưng thật trầy trật mà kết quả chỉ nửa vời: Cây cối trên sườn núi Thới Lới tưởng như sống rồi thì đến mùa mưa bão lại bị lay gốc héo rũ, đến mùa nắng lại chết khô.
Thêm một sự thấm thía về hệ sinh thái là khi chúng tôi cùng anh em đi tìm nguồn cỏ tranh để lợp cho ngôi nhà nọ đã được xếp hạng di tích. Chỉ một căn nhà thôi nên lượng tranh cũng không quá lớn, vậy mà gọi hỏi mua khắp nơi không có. Ước đoán ở Tây Nguyên còn, nhưng cũng được trả lời tương tự. Lặn lội ra Huế tìm tranh, người bán chỉ có tranh loe hoe, mà giá quá đắt. Đành phải về xin thay di tích bằng mái ngói. Nhớ thuở xưa rừng núi đâu đâu cũng có cỏ tranh, đến mùa nông nhàn, bà con chỉ việc mang đòn xóc lên tới rìa núi là tha hồ cắt tranh tốt gánh về. Người ta nói bây giờ rừng núi đã trồng keo hết rồi, không còn tranh khiến người viết thắc mắc: Tranh là loài sống rất khỏe, mặt đất có cháy thì chỉ ít lâu sau tranh lại mọc lên; nếu trồng keo thì góc núi bìa rừng ắt cũng phải còn tranh, đâu đến nỗi thế? Người ta lại giải thích: Nông dân đem thuốc diệt cỏ rải khắp, hết luôn tranh!
Vậy là hệ sinh thái vốn vô cùng phong phú đã bị “nghèo hóa”. Việc trồng cây keo trên núi rừng cho người dân thu nhập tương đối khá, nhưng khi cần những thứ khác, như tranh, ta biết phải làm sao? Sự việc còn hệ trọng hơn khi nghĩ đến việc sạt lở, lũ lụt, động đất, trong bối cảnh địa cầu đã có biến đổi khí hậu cực đoan, thế mà rừng Việt Nam ta bị “lâm tặc” phá khá nhiều. Đến cả rừng trồng nhiều khi cũng không tránh khỏi, như vụ hàng vạn cây thông hai mươi năm tuổi ở Đắk Đoa (Gia Lai) chết khô.
Cỏ phải dựa vào đất để mọc lên. Nai phải có cỏ để ăn. Hổ phải có nai để bắt. Hổ chết thì làm mồi cho đất. Một khi bắt hổ nhốt chuồng, nai làm mồi nhậu, thì không cần đến thợ săn, hổ có tự do ở rừng rồi hổ cũng chết. Nhớ rừng, ta nhớ những cánh rừng nguyên sinh hùng vĩ với cây đại thụ, suối nước trong veo, tiếng chim thú vang lên đây đó. Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
CAO CHƯ