Nghĩ về ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm 1946

VHO- Thật khó xác định được tín ngưỡng thờ cúng Quốc Tổ Hùng Vương có từ thời điểm nào. Từ tập quán và tín ngưỡng dân gian thờ cúng Tổ tiên được hóa thân vào một biểu tượng mang tính quốc gia, hình thành cùng quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Buổi đầu là tín ngưỡng mang tính dân gian của cộng đồng dân cư sống trong các làng xã quanh vùng đất sau này được tôn vinh là Đất Tổ (nay là Phú Thọ), sau lan tỏa rộng cùng với quá trình hoàn thiện lãnh thổ và cộng đồng quốc gia.

 

 

 Sau chiến thắng giặc Minh vào thế kỷ XV, nền tự chủ của Đại Việt được xác lập lại dưới triều nhà Lê, những truyền thuyết về Hùng Vương được đưa vào chính sử (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư), sự thờ phụng lan tỏa thành quốc lễ. “Ngọc phả Hùng Vương” soạn năm 1470 đã chép: “Từ đời nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần rồi đến triều đại ta bây giờ là Hậu Lê (1416-1527) vẫn cùng hương khói trong ngôi đền thờ làng Trung Nghĩa. Ở đây nhân dân toàn quốc đều đến lễ bái để tưởng nhớ công lao của các đấng Thánh tổ xưa”... Đến triều Nguyễn (thế kỷ XIX), cùng với việc tu sửa nơi thờ tự tại vùng Đất Tổ (Phú Thọ), tại kinh đô Huế, việc thờ cúng Quốc Tổ cùng các vị tiền nhân có công với nước được triều đình đưa vào ngôi đền “Lịch Đại Đế Vương” xây trong kinh đô Huế. Và năm 1917, triều đình Khải Định chấp thuận chọn ngày 10 tháng 3 Âm lịch hằng năm là ngày Giỗ Quốc Tổ cùng các quy định về nghi thức như một quốc lễ. Tuy vậy, việc tổ chức thực hành tín ngưỡng chủ yếu vẫn là ở các làng xã quanh vùng Đất Tổ, lấy ngọn Nghĩa Lĩnh ở Phú Thọ làm trung tâm. Vào dịp lễ trọng, triều đình chỉ gửi lễ đến dâng Quốc Tổ.

Giỗ Tổ năm Ất Dậu (1945), vào thời điểm cao trào cách mạng giải phóng dân tộc lên cao, lòng khao khát giành lại nền tự chủ được thể hiện trong sự kiện lần đầu tiên, Ngày Giỗ Tổ (ứng với ngày 21.4.1945) được tổ chức công khai tại Hà Nội thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân đến dự tại khu vực Đông Dương học xá (nay là khu Đại học Bách khoa) và do các tổ chức yêu nước trong giới thanh niên làm hạt nhân (Tổng hội sinh viên, Hướng đạo sinh, Truyền bá quốc ngữ…). Nhưng phải sau ngày nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, vào dịp Giỗ Tổ Hùng Vương năm Bính Tuất (11.4.1946), lần đầu tiên một nhà nước đứng ra tổ chức trọng thể do người đứng đầu nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng làm chủ lễ tại Thủ đô Hà Nội và một đoàn đại diện nhà nước do Bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng dẫn đầu đã lên Đền Thượng ở Phú Thọ dâng lễ (theo đúng sắc lệnh của Chủ tịch nước số 22SL, ký ngày 18.2.1946)…

Kể từ đó, Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương trở thành một trong những ngày lễ trọng nhất của nước ta theo pháp định… Ngày 6.12.2012, Ủy ban Liên chính phủ thuộc tổ chức UNESCO đã công nhận “Tín ngưỡng thực hành thờ cúng Hùng Vương” của Việt Nam là một trong những “di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại”. Nhân Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm nay, xin giới thiệu bài báo tường thuật lễ Giỗ Tổ Hùng Vương cách đây 76 năm, lần đầu tiên được Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức và do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng làm chủ lễ:

“Toàn quốc nhớ ơn Tổ: Lễ kỷ niệm Đức Hùng Vương”

Hà Nội, ngày 11.4.46, trên bãi mênh mông của nhà Việt Nam học xá (nay là khu vực Đại học Bách khoa-NV), hàng mấy vạn người thành hàng lối, cờ ngũ nghiêm trang. Một biển người trắng xóa im tăm tắp dưới ánh nắng gay gắt của một buổi chiều đầu mùa hè. Bàn thờ thiết lập ở giữa bãi. Một tấm bài vị đề một hàng chữ: “Hùng Vương khai quốc”. Quanh đài, cờ ngũ hành, đồ lộ bộ bày xen với những cờ đỏ sao vàng. Hơn 4 giờ, Hồ Chủ tịch đến với những nhân viên Chính phủ và đại biểu Quốc hội. Tiếng hoan hô nổi dậy như tiếng sóng cuồn cuộn, trên mặt biển người.

Lễ chào cờ, hát Tiến quân ca. Một hồi chiêng trống nổi lên. Hồ Chủ tịch bỏ mũ tiến lên đài, đốt hương cắm vào lò hương lớn. Rồi một đại biểu Quốc hội và một đại biểu Trung - Nam Bộ nối tiếp nhau nói với công chúng, nói về ý nghĩa của ngày giỗ Tổ này, về cái nhiệm vụ của lũ con cháu Hùng Vương là thế hệ của chúng ta ngày hôm nay.

Sau đó, hàng vạn cái miệng cùng hô to hai khẩu hiệu của buổi lễ:

- Trung, Nam, Bắc thống nhất

- Toàn dân đoàn kết

Lễ tan, Chủ tịch và các lãnh đạo đi diễu qua mặt lễ đài. Sau lưng, cứ dòng cuồn cuộn những người đi dự lễ cũng kéo nhau qua bàn thờ trong một trật tự nghiêm chỉnh.

(Báo Cứu Quốc, Số 213,12.4.1946)

 DƯƠNG TRUNG QUỐC

Ý kiến bạn đọc