Hò vè chống Pháp ở liên khu V:
Sức mạnh văn hóa kháng chiến
VHO - Trong thơ văn dân gian xứ Quảng xưa, lính Pháp xâm lược thường được gọi là “Lang Sa” - cách đọc chệch của từ France. Cách đây tròn 80 năm, khi tiếng súng quân giặc nổ vang, từ Quảng Nam đến Nam Bộ đã bùng lên những vần thơ, áng văn chứa đầy hào khí, cổ vũ tinh thần hy sinh quên mình, khắc họa bao phận người giữa khói lửa chiến tranh.

Trong bộ sách Văn học dân gian Quảng Nam Đà Nẵng của tác giả Nguyễn Văn Bổn (nhà thơ Tân Hoài Dạ Vũ), ngoài những bài vè kể về những nhân vật, phận người ở xóm làng, như: Vè chị Nguyệt, Vè chị Phụng, Vè uống rượu... còn có những bài vè nói lên nỗi niềm của người nông dân dưới gót giày xâm lược của bọn Lang Sa. Bài Vè căm thù giặc Pháp là một ví dụ: Đùng đùng tiếng súng bao vây/ Làng trên xóm dưới lính Tây đi lùng/ Địch bao ba mặt/ Tiến quân rầm rộ/ Lũ quân thù không chỗ nào thưa/ Nhà nào chúng cũng không chừa...
Trong bài còn khắc họa hình ảnh bà mẹ “Trông Tây về phố, tìm mau con mình”. Qua câu thơ, khuôn mặt giàn dụa nước mắt của người mẹ già hiện lên bên xóm nghèo tan hoang, nghi ngút khói súng. Mẹ mong tiếng súng Thompson của bọn lính Pháp lắng xuống để mau mau đi tìm con như chú gà lạc bầy.
Cụ Trương Vui, 91 tuổi, người gốc xã Điện Trung, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay là xã Gò Nổi, thành phố Đà Nẵng kể lại, trước năm 1945, thỉnh thoảng lính Tây đi ruồng khắp xóm, mỗi khi đi thì có người dân tộc dẫn đường. Chúng vô xóm hỏi tìm Việt Minh, rồi bắn súng đùng đùng, vậy nên cha mẹ cậu Vui quyết định gồng gánh con tìm vào vùng tự do của Liên khu V, đó là tỉnh Quảng Ngãi. Các cụ già thường truyền miệng kể lại, Pháp rất kinh sợ vùng đất này và gọi là “xứ hung dữ”.
Trên đường đi bộ mấy ngày vô Quảng Ngãi, người dân hay đọc cho nhau nghe bài vè: Lang Sa nó qua, nó dựng bao mai/ Đồn La Qua, Vĩnh Điện canh gác quan tài/ Nó lùng dân, nó giam, ai biết tội gì/ Bước qua làng mạc bốc hơi mái nhà, ruộng vườn tan nát.

Sau Tổng khởi nghĩa 19.8.1945, Quảng Ngãi trở thành vùng tự do, được Trung ương đặt Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Trung Bộ. Quảng Ngãi trở thành biểu tượng hiên ngang, bất khuất, vì vậy đã tạo nguồn cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ từ các nơi về đây để cảm nhận không khí chiến đấu, từ đó sáng tác nên những bài thơ, bản nhạc. Đại tá, nhà thơ Lương Sĩ Cầm, nguyên Trưởng đoàn Điện ảnh Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội biên phòng) từng có mặt tại Quảng Ngãi để sáng tác văn chương.
Khi lực lượng vũ trang ngày càng chủ động và lớn mạnh, khắp các xóm làng ở vùng đất Quảng Nam, Quảng Ngãi truyền nhau câu vè với giọng điệu mỉa mai, không sợ lính Pháp nữa, quyết đứng lên giành độc lập: Cắc cắc thùng thùng/ Là kiểu anh hùng/ Của phường Pháp tặc/ Đánh Nam dẹp Bắc/ Mà chẳng được chi/ Trở lại chốn ni/ Giở trò tàn bạo...
Từ năm 1947, lực lượng vũ trang ở các địa phương thuộc tỉnh Quảng Nam cũ đã tổ chức nhiều cuộc tấn công lính Pháp, có những trận nổi tiếng như: Mai phục lính Pháp ở rừng thông Quế Sơn, phá đồn lính Pháp ở nhiều địa phương... Trong không khí hân hoan, quân dân đã đọc bài vè chế nhắc lại cái thời bị thực dân Pháp đè đầu, cưỡi cổ, sưu cao thuế nặng: Tây qua đánh thuế, bắt xâu/ Thuế sông, thuế chợ, thuế trâu, thuế bò/ Thuế hôm bán gốm, bán lò/ Rau heo, nồi đất, nậu nò, nậu sông...
Tại vùng đất Nam Bộ cũng có rất nhiều bài thơ lên án giặc Pháp. Bởi khi chúng chiếm được Nam Kỳ, lập tức cướp đất của dân, biến thành những đồn điền, nông trang sản xuất lúa gạo xuất khẩu, nuôi bộ máy chiến tranh; hàng loạt các loại thuế được ban hành, từ thuế muối, thuế đò, thuế thân, bắt đi xâu làm đường, làm cầu... Vậy nên người nông dân căm ghét lính Pháp và lưu truyền câu thơ: Bữa thấy bòng bong che trắng lốp/ muốn tới ăn gan/ Ngày xem ống khói chạy đen sì/ muốn ra cắn cổ.
Ngày 23.9.1945, khi toàn dân Nam Bộ đứng lên theo lời kêu gọi kháng chiến của Giáo sư Trần Văn Giàu - Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, đã có nhiều tác phẩm văn chương ra đời giữa khói lửa để động viên tinh thần quân dân. Tác phẩm nổi tiếng trở thành bài ca đi cùng năm tháng là bài hát Nam Bộ kháng chiến của nhạc sĩ Tạ Thanh Sơn - một người xuất thân từ gia đình giàu có ở tỉnh Vĩnh Long, nhưng đã chọn cuộc sống dân dã, gần gũi với người nghèo. Khi học Trường Colleghe Cần Thơ, ông xin ở lại nội trú và may mắn được giao lưu với nhạc sĩ Lưu Hữu Phước.
Nhạc sĩ Tạ Thanh Sơn viết Nam Bộ kháng chiến vào ngày 23.9.1945, tức chỉ 2 ngày sau khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Nam Bộ. Bài hát được đăng trên báo Độc Lập, sau đó được hát truyền miệng, hát tại chiến hào, vang lên như trống trận, thúc giục các thế hệ xả thân vì đất nước: Mùa Thu rồi, ngày hăm ba/ Ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến/ Rền khắp trời, lời hoan hô/ Dân quân Nam nhịp chân tiến ra trận tiền”.
Khi tiếng súng Nam Bộ kháng chiến vang lên, người dân ở khắp các làng quê đã đọc những câu thơ từng được sáng tác từ thời điểm Pháp tấn công Sài Gòn - Gia Định năm 1859 để nhắc nhở nhau cùng nuôi chí căm thù, quyết không ngả theo giặc, chiến đấu tới giọt máu cuối cùng: Giặc Pháp nó qua đây/ Nó giương súng, nó bắn ngay, bắn liền/ Nó đòi đất, nó giành tiền/ Nó bắt dân mình, nó xiềng, nó gông/ Đồn làng nó đốt, nó xông/ Nhiều nơi tan tác, ruộng đồng tiêu tan/ Dân Nam đâu có chịu hàng/ Cầm dao, cầm súng, quyết làm nên công...