Phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030:
Động lực mới và vai trò quyết định của địa phương
VHO - Quyết định 2486/QĐ-TTg về Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa (CNVH) Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đã được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành.
Có thể thấy, đây là một tuyên bố về tầm nhìn quốc gia, một bước ngoặt trong tư duy phát triển, từ chỗ xem văn hóa chủ yếu là “nền tảng tinh thần”, chúng ta đang đưa văn hóa lên vị thế động lực tăng trưởng, trụ cột của kinh tế tri thức và sức mạnh mềm trong thời kỳ hội nhập sâu rộng.

Chưa bao giờ văn hóa được nhận diện rõ ràng như hôm nay: Vừa là nguồn lực mềm để tạo ảnh hưởng và sức hấp dẫn trong quan hệ quốc tế, vừa là một ngành kinh tế với những chuỗi giá trị cụ thể, những doanh nghiệp, thị trường, sản phẩm, doanh thu và việc làm, vừa là ngôn ngữ chung để Việt Nam đối thoại với thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Đằng sau đó là những biến đổi mạnh mẽ: Công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn đang làm lại “bản đồ” sản xuất, phân phối và tiêu dùng sản phẩm văn hóa; những bộ phim, bài hát, trò chơi hay sản phẩm thiết kế có thể đi khắp thế giới chỉ bằng một cú nhấp chuột; những thương hiệu văn hóa trở thành “đại sứ” hiệu quả hơn nhiều chiến dịch quảng bá truyền thống.
Những năm qua, nhiều quốc gia châu Á có nền tảng văn hóa tương đồng với Việt Nam đã chứng minh sức mạnh bứt phá của công nghiệp văn hóa khi được đầu tư đúng hướng… Việt Nam bước vào giai đoạn mới với nhiều lợi thế không thể xem nhẹ: Một thị trường hơn 100 triệu dân, dân số trẻ, khả năng tiếp nhận công nghệ nhanh; một nền văn hóa đa dạng từ Bắc vào Nam, từ cao nguyên đến đồng bằng, từ di sản cung đình đến văn hóa dân gian; một cộng đồng sáng tạo đang hình thành trong điện ảnh, âm nhạc, thiết kế, thời trang, game, nội dung số.
Chiến lược phát triển các ngành CNVH đến năm 2030 nhắm tới việc biến toàn bộ những lợi thế đó thành năng lực cạnh tranh quốc gia, vào đúng thời điểm mà thế giới đang dịch chuyển mạnh mẽ sang mô hình kinh tế sáng tạo.
Điểm nhấn đầu tiên của Chiến lược là tầm nhìn toàn diện nhưng có chọn lọc. Thay vì nhìn CNVH một cách mơ hồ, Chiến lược nêu rõ 10 ngành chủ yếu, từ điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm đến phần mềm, trò chơi giải trí, thiết kế sáng tạo, quảng cáo, du lịch văn hóa, thời trang, xuất bản…
Trong đó, 6 ngành được xác định là trọng tâm trong giai đoạn đến năm 2030: Điện ảnh; nghệ thuật biểu diễn; phần mềm và trò chơi giải trí; quảng cáo; thủ công mỹ nghệ; du lịch văn hóa. Đó đều là những lĩnh vực có thị trường rộng, khả năng xuất khẩu, giá trị gia tăng cao và phù hợp với bản sắc, năng lực của Việt Nam. Việc không “ôm đồm” tất cả mọi thứ cùng một lúc là một lựa chọn khôn ngoan trong bối cảnh nguồn lực còn hạn chế và sự cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt.
Đáng chú ý hơn, Chiến lược đặt ra những mục tiêu đầy tham vọng: Tốc độ tăng trưởng bình quân của các ngành công nghiệp văn hóa khoảng 10%/năm; đến năm 2030, CNVH đóng góp khoảng 7% GDP; lực lượng lao động trong khu vực sáng tạo chiếm từ 6 đến 8% tổng lao động xã hội; phần lớn sản phẩm văn hóa được số hóa, đủ sức cạnh tranh trên các nền tảng toàn cầu. Đó không chỉ là những con số khô khan, mà là lời khẳng định: Việt Nam lựa chọn đi theo con đường phát triển dựa trên tri thức, sáng tạo và công nghệ, chứ không bằng mọi giá kéo dài mô hình tăng trưởng dựa trên khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ.
Quan trọng không kém, cách tiếp cận của Chiến lược xoay quanh việc xây dựng một hệ sinh thái CNVH hoàn chỉnh hơn là chỉ “bơm” thêm tiền cho một vài chương trình dự án đơn lẻ.
Từ cải cách thể chế, chính sách; hoàn thiện luật pháp về sở hữu trí tuệ, điện ảnh, công nghệ số; phát triển hạ tầng và không gian sáng tạo như trung tâm công nghiệp văn hóa, studio, trường quay, không gian nghệ thuật; đào tạo nhân lực sáng tạo; hỗ trợ doanh nghiệp; đến việc mở rộng thị trường, bảo vệ bản quyền và thúc đẩy hợp tác quốc tế, tất cả được nhìn như những mắt xích của một chuỗi giá trị. Khi những mắt xích này được kết nối tốt, chuỗi giá trị CNVH mới có thể vận hành trơn tru…
Trong bức tranh chung ấy, địa phương chính là “mặt trận tiền tuyến” của Chiến lược 2030. Bởi mọi không gian sáng tạo, lễ hội, festival, sự kiện, làng nghề, khu du lịch, cụm rạp chiếu, trung tâm thương mại, khu ẩm thực… đều nằm trên địa bàn các tỉnh, thành phố.
Chính quyền địa phương là nơi quyết định quy hoạch đất đai cho các không gian sáng tạo, định hình chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, lựa chọn ngành mũi nhọn, tổ chức các sản phẩm và chuỗi sự kiện để công nghiệp văn hóa không dừng lại ở khẩu hiệu. Khi một thành phố xác định rõ mình muốn trở thành “thành phố sáng tạo về ẩm thực”, “thành phố của phim ảnh”, hay “thành phố của festival”, mọi quyết sách về hạ tầng, sản phẩm, nhân lực, sự kiện sẽ dần xoay quanh hướng ưu tiên đó.
Huế là một ví dụ điển hình cho mô hình phát triển CNVH dựa trên di sản. Với quần thể di tích Cố đô, Nhã nhạc cung đình, hệ thống di sản tư liệu, không gian văn hóa đặc sắc dọc sông Hương, hệ thống làng nghề truyền thống, ẩm thực phong phú và những festival đã tạo được thương hiệu, Huế có đủ điều kiện để trở thành một trung tâm công nghiệp văn hóa mang bản sắc riêng, một “thủ đô sáng tạo của di sản”.
Nếu biết kết nối Festival Huế bốn mùa với một thị trường biểu diễn chuyên nghiệp; xây dựng khu CNVH, sáng tạo sông Hương với các studio, trường quay, phòng lab thiết kế ánh sáng, âm thanh; hình thành không gian áo dài, thời trang di sản và hệ sinh thái làng nghề sáng tạo như pháp lam, gốm, sơn mài, hoa giấy… thì mỗi lễ hội, mỗi di sản sẽ không chỉ là câu chuyện ký ức, mà trở thành “nhà máy” sản xuất sản phẩm văn hóa sống động.
Từ góc nhìn đó, có thể thấy Chiến lược CNVH đến 2030 mở ra một cánh cửa rất rộng, nhưng đi qua cánh cửa ấy hay không phụ thuộc vào mức độ quyết liệt của hành động trong thực tế. Ở tầm quốc gia, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, cân nhắc xây dựng Luật CNVH hoặc một đạo luật khung tương đương; thành lập một cơ quan điều phối liên ngành đủ mạnh; triển khai các cơ chế tài chính, tín dụng, thuế phù hợp với đặc thù doanh nghiệp sáng tạo; đầu tư có trọng điểm cho hạ tầng sáng tạo. Ở tầm địa phương, mỗi tỉnh, thành phố cần có chiến lược riêng, xác định rõ hai, ba ngành mũi nhọn, gắn với quy hoạch không gian, phát triển du lịch và xây dựng thương hiệu đô thị.
Việt Nam có đầy đủ tiền đề để trở thành một quốc gia mạnh về CNVH ở khu vực: Lịch sử phong phú, bản sắc đa dạng, con người sáng tạo, sự bứt phá của công nghệ số. Vấn đề còn lại là chúng ta có dám biến tư duy thành hành động, biến bản sắc thành sức mạnh cạnh tranh, biến di sản thành tài sản, biến tiềm năng thành kết quả hay không. Nếu biết tận dụng thời cơ, kiên trì cải cách, đầu tư đúng trọng tâm và tạo môi trường cởi mở cho lực lượng sáng tạo, văn hóa hoàn toàn có thể trở thành động lực phát triển mới, công nghiệp văn hóa có thể trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, và Việt Nam có thể bước lên một tầm cao mới trên bản đồ sáng tạo toàn cầu.

RSS