Từ giảng đường đến thị trường:

Hành trình mỹ thuật Đông Dương đi ra thế giới

TRẦN HẬU YÊN THẾ

VHO - Khó có thể nói nghệ sĩ hôm nay kém tài năng so với thế hệ nghệ sĩ 100 năm trước, nhưng cho đến nay, chúng ta chưa thấy một ngôi trường nghệ thuật nào ở Việt Nam dám đưa tác phẩm của sinh viên ra nước ngoài triển lãm thường xuyên như Trường Mỹ thuật Đông Dương đã làm trong suốt hai thập kỷ tồn tại của mình.

Hành trình mỹ thuật Đông Dương đi ra thế giới - ảnh 1
Hoạ sĩ Victor Tardieu, người đồng thành lập và là Hiệu trưởng đầu tiên củaTrường Mỹ thuật Đông Dương

100 năm qua, giáo dục Việt Nam đã có rất nhiều thay đổi. Giáo dục nghệ thuật có lẽ là thay đổi quan trọng nhất. Sự xuất hiện các trường dạy nghệ thuật thậm chí không những thay đổi sự phát triển nghệ thuật mà còn tạo ra những thay đổi nhiều mặt đời sống văn hóa.

 Sau 100 năm nhìn lại những đóng góp của Trường Mỹ thuật Đông Dương, chúng ta càng thấy nhận định của học giả Đào Duy Anh là một dự báo chính xác: “… trong nghệ thuật sử nước ta, Trường ấy có cái địa vị rất trọng yếu là trung tâm cho một cuộc cải tạo lớn”. (Vệ Thạch Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương). Các trường nghệ thuật nói chung và Trường Mỹ thuật Đông Dương nói riêng đã tạo nên những bước ngoặt lịch sử quan trọng cho văn hóa Việt Nam. Kể từ năm 1931 đến nay, thế giới nghệ thuật, thị trường nghệ thuật ở phương Tây đã đi từ ngỡ ngàng này đến bất ngờ khác, những kỷ lục trong các phiên đấu giá liên tiếp lập nên các cột mốc mới.

Trong phân hạng truyền thống cao nhất là Sĩ tiếp theo là Nông - Công và cuối cùng là Thương. Cách thức phân hạng này cũng ảnh hưởng rất lớn đến loại hình chuyên môn đào tạo. Trước khi người Pháp đặt chế độ giáo dục ở Đông Dương, các trường học từ hoàng gia tới chốn thôn quê chỉ cốt đào tạo ra đội ngũ quan lại. Cho nên những người làm nông, công, thương đều chỉ học theo lối tự phát, truyền nghề trong gia đình và các phường thợ. Giáo dục mỹ thuật hành trình từ Nam ra Bắc các trường nghề ở Việt Nam được thành lập đầu tiên ở miền Nam từ cuối thế kỷ XIX người Pháp mở các trường dạy kỹ thuật, kỹ nghệ, mỹ nghệ để tạo nhân lực cho công cuộc khai thác thuộc địa. Những sản phẩm của các thầy trò Trường Mỹ thuật Đồng Nai, trường vẽ Gia Định, Trường Mỹ nghệ thực hành Thủ Dầu Một, Trường Bách nghệ (sau đổi tên là Trường Mỹ nghệ thực hành Hà Nội), do định hướng đào tạo chỉ gây dựng lớp nghệ nhân thợ kỹ thuật ngành nghề làm các vật phẩm, đồ mỹ nghệ nên ít gây sự quan tâm chú ý của giới sưu tầm nghệ thuật cao cấp.

Nhiều mẫu mã sản phẩm giai đoạn này vẫn phỏng theo mẫu mã Trung Hoa, đặc biệt là các sản phẩm gốm. Với định hướng đào tạo nghệ sĩ - trí thức, Trường Mỹ thuật Đông Dương được thành lập năm 1924 đã tạo ra thay đổi có tính lịch sử, định vị lại vị thế của nghệ thuật Việt Nam trên trường quốc tế. Trong báo cáo gửi toàn quyền Merlin (1924), họa sĩ Victor Tardieu đã viết: “Nói chung là không tạo ra một ngôi trường để giảng dạy các hình thức xưa cũ mà không có sự phân biệt hoặc tư duy phản biện. Một trường học bắt chước mù quáng quá khứ chỉ mang lại những tác phẩm nghệ thuật vô hồn, vĩnh viễn mô phỏng thời đại đã qua. Phải sáng lập ra một ngôi trường vừa tôn trọng truyền thống bản địa, vừa thích ứng với nhu cầu hiện đại”.

Đấy chính là tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt hơn 20 năm tồn tại của trường. Tư tưởng đó là giá trị vô hình góp phần làm nên thương hiệu nghệ thuật của Mỹ thuật Đông Dương.

Hành trình tác phẩm đi từ mái trường non trẻ xứ Đông Dương đến những thị trường nghệ thuật lâu đời Âu Mỹ là hành trình không hề đơn giản, không hề tình cờ. Trước tiên là định hướng đào tạo, mô hình đào tạo và chất lượng đào tạo của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quyết định thế hệ tài năng chói sáng.

Việc đặt Trường Mỹ thuật Đông Dương trong Đại học Đông Dương là một sáng tạo đột phá chưa từng có ở chính quốc. Trường Mỹ thuật Paris phải tới năm 2012 mới thoát khỏi vị thế là trường nghệ thuật độc lập để trở thành trường thành viên của Đại học Khoa học và Văn chương Paris (Paris Sciences et Lettres University).

Hành trình mỹ thuật Đông Dương đi ra thế giới - ảnh 2
Tranh “Madame Phương” đạt kỷ lục đấu giá 3,1 triệu USD

Không phải đến bây giờ mà ngay từ thập niên 30-40 của thế kỷ trước, sự tăng trưởng đáng kinh ngạc của giao dịch tác phẩm nghệ thuật đã được báo chí đương thời ghi lại. “Hội chợ Hà Nội 1941 tổ chức trưng bày tranh trong Viện Bảo tàng Maurice Long cho thấy một chiến thắng thực sự của Trường Mỹ thuật và Hiệp hội Họa sĩ Đông Dương” (Lưu Đình Tuân (2019)  - Việt Nam qua tuần san Indochine 1941-1944). Chiến thắng thực sự này được lượng hóa bằng tiền: “Năm 1934 số tiền chỉ đạt 600 đồng và năm 1935 là 687 đồng; năm 1936, thấp nhất, chỉ được 300 đồng. Nhưng từ năm 1937, con số đạt tới 1.600 đồng. Năm 1938, đạt 7.180 đồng; sau đó số tiền nhảy vọt lên 24.799 đồng vào năm 1939; năm 1940, 25.422 đồng; năm 1941, 27.116 đồng. Năm 1942 nổi bật với số tiền ấn tượng 41.087 đồng, tức 410.870 franc” (sách đã dẫn).

Tính tác giả là nhân tố quan trọng để trị giá tác phẩm được định vị được khẳng định. Họa sĩ Victor Tardieu luôn yêu cầu phẩm chất cá nhân trong sáng tác của người học và cũng là sứ mệnh của những người thầy truyền cảm hứng khích lệ sinh viên khẳng định tiếng nói nghệ thuật riêng của mình. Phải Việt Nam nhưng Việt Nam kiểu Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh, Lương Xuân Nhị… chứ không phải một kiểu hương vị Việt Nam chung chung và theo khuôn mẫu định sẵn từ phương Tây đem đến. Đầu tiên là những bức tranh hàng trăm nghìn đô cho tới lần gõ búa tạo nên địa chấn triệu đô ở các sàn đấu giá của họa sĩ Lê Phổ, Mai Trung Thứ.

Có thể kể ra nhiều ví dụ với những tác phẩm của Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Mai Trung Thứ, Nguyễn Phan Chánh…, nhưng xin được dừng lại ở tác phẩm hơn 3 triệu đô của Mai Trung Thứ: Madame Phương. Bức tranh xuất hiện trong phiên đấu giá mang tên Beyond Legends: Modern Art Evening Sale của Sotheby’s Hong Kong ngày 18.4.2021. Tại phiên đấu giá bức tranh này tên gốc là Cô Phương vốn là một bài học sáng tác của sinh viên Mai Trung Thứ. Qua bức ảnh tư liệu đen trắng về một góc lớp học của Trường Mỹ thuật Đông Dương, ta biết chắc bức cô Phương cũng như tác phẩm Tuổi hạnh phúc của Lê Phổ hay, tác phẩm Người hát dân ca của Nguyễn Phan Chánh đều là những bài học. Vào năm 1930, bức chân dung Cô Phương trưng bày lần đầu tại Trường Mỹ thuật Đông Dương. Sau đó, tác phẩm được tuyển chọn để tham dự Triển lãm quốc tế thuộc địa năm 1931 ở Paris.

Để có thể chinh phục được thị trường nghệ thuật Âu Mỹ, họa sĩ Victor Tardieu và người kế nhiệm  từ rất sớm đã mạnh dạn đưa các tác phẩm của học trò ra biển lớn. Mà các kỳ triển lãm Đấu xảo ngay cạnh Trường Mỹ thuật Đông Dương chính là cửa ngõ đầu tiên ra thế giới.

Hành trình mỹ thuật Đông Dương đi ra thế giới - ảnh 3
Hội chợ Đấu xảo Hà Nội 1928

Cùng nhìn lại hành trình:

15.11.1929: Toàn quyền Đông Dương và Thống sứ Bắc Kỳ dự lễ khai mạc Triển lãm mỹ thuật đầu tiên của Trường Mỹ thuật Đông Dương tại Hà Nội. Triển lãm tổ chức tại Trường Mỹ thuật Đông Dương, số 102 phố Reinach, mở cửa tự do, và kéo dài đến hết ngày 24.11.1929.

1931: Trường Mỹ thuật Đông Dương là hạt nhân và nòng cốt của Khu Đông Dương tại Đấu xảo thuộc địa quốc tế, Paris.

10.10.1932: Khai mạc Triển lãm Mỹ thuật Đông Dương (tượng của Vũ Cao Đàm, các tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh, Nam Sơn, Nguyễn Hữu Đẩu, Công Văn Trung, tại Agindo (Đông Dương kinh tế cục), Paris.

Trên đà thắng lợi, các tác phẩm hội họa của các học sinh Trường Mỹ thuật Đông Dương được tiếp tục triển lãm tại Roma năm 1932, Cologne năm 1933, tại Milano 1934, tại Bỉ năm 1935-1937, tại San Francisco năm 1937, tại Nhật năm 1940.

Đọc Hồi ức của một nhà buôn tranh của Ambroise Vollard, chúng ta tin rằng để lọt được vào tầm mắt xanh của nhà sưu tập lớn, tác phẩm phải được trưng bày ở những địa chỉ nghệ thuật danh giá, được thực hiện bởi các curator chuyên nghiệp. Khó có thể nói nghệ sĩ hôm nay kém tài năng so với thế hệ nghệ sĩ 100 năm trước, nhưng cho đến nay, chúng ta chưa thấy một ngôi trường nghệ thuật nào ở Việt Nam dám đưa tác phẩm của sinh viên ra nước ngoài triển lãm thường xuyên như Trường Mỹ thuật Đông Dương đã làm trong suốt hai thập kỷ tồn tại của mình. Các tác phẩm đa phần là các bài tốt nghiệp mới dừng lại ở những giải thưởng Mỹ thuật toàn quốc, Mỹ thuật Thủ đô, Mỹ thuật lực lượng vũ trang... Tóm lại, ta vẫn bơi ao nhà chứ chưa ra biển lớn. Hành trình từ giảng đường ra thương trường thế giới vì thế, vẫn còn xa lắm.