Soi đường cho nền sân khấu phát triển
VHO- Đối với nền sân khấu Việt Nam, sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt mới. Nhìn lại những chặng đường của sân khấu Việt Nam từ khi có Đề cương là một dịp để nhận thức rõ và đầy đủ hơn ý nghĩa lớn lao của cách mạng đã tạo nên một nền sân khấu mới.
Vở kịch “Chén thuốc độc” đã được công diễn trên sân khấu Nhà hát Lớn Hà Nội, mở đầu trong chuỗi hoạt động kỷ niệm của Tuần lễ kỷ niệm 100 năm sân khấu Kịch nói Việt Nam do Bộ VHTTDL và Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam tổ chức
Sau Đề cương về văn hóa 1943 là sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945, là sự ra đời của một nền sân khấu mới. Hàng triệu người Việt Nam yêu nước dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Ðảng, kết tụ lại “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, xây dựng một Nhà nước kiểu mới của dân, vì dân và do dân. Chính thể mới cùng các tầng lớp nhân dân đã giải thoát mọi trói buộc cho các hình thức nghệ thuật sân khấu vươn mình hòa nhịp với vận hội của dân tộc.
Cách mạng đã tạo ra những điều kiện, những tiền đề hồi sinh nền sân khấu Việt Nam đang đứng trước nguy cơ tàn lụi. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do yêu cầu lịch sử, hàng trăm đơn vị nghệ thuật sân khấu đã được thành lập trên cả nước, hình thành nên đội ngũ nghệ sĩ sân khấu Việt Nam và nền nghệ thuật sân khấu cách mạng. Cùng với các hình thức văn nghệ nói chung, sân khấu Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử, góp phần to lớn vào công cuộc kháng chiến kiến quốc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Với cách mạng, nghệ thuật sân khấu có cơ hội “tắm” mình trong sinh hoạt tinh thần của cả dân tộc, trở thành một ngành nghệ thuật quan trọng với hệ thống đơn vị nghệ thuật thuộc các kịch chủng khác nhau từ tuồng, chèo, múa rối, rồi cải lương, kịch dân ca, kịch nói, xiếc được phân bổ rộng khắp từ trung ương đến các địa phương, bộ, ngành chủ quản.
Những ngày đầu cách mạng, đặc biệt trước và sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất năm 1946, một số ban kịch đã diễn, không chỉ ở Nhà hát Lớn. Toàn quốc kháng chiến, hầu hết trí thức, văn nghệ sĩ đã lên các chiến khu, tham gia chống giặc. Điều đặc biệt là các nhóm kịch lại là nơi tập hợp nhiều văn nghệ sĩ thuộc các ngành nghệ thuật cùng đi biểu diễn để phục vụ kháng chiến. Non một năm sau, ngày 3.10.1947, một số văn nghệ sĩ đã họp ở Đại Từ - Thái Nguyên bàn việc thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam, có bầu một Ban chấp hành lâm thời để xúc tiến các công việc. Đại hội Văn hóa toàn quốc lần thứ 2 tại xã Đào Giã - Thanh Ba - Phú Thọ họp trong 5 ngày từ 16 - 20.7.1948 đã chính thức thành lập Hội Văn hóa Việt Nam. Đại hội nhất trí bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Hội trưởng danh dự. Hội trưởng: Đặng Thai Mai. Tổng thư ký: Hoài Thanh. Đại biểu nghệ thuật kịch: Thế Lữ.
Cũng trong Hội nghị này, Đoàn Sân khấu Việt Nam được thành lập (cùng Đoàn Nhạc sĩ, Đoàn Kiến trúc sư) với Thường vụ gồm: Thế Lữ - Đoàn Phú Tứ - Phạm Văn Khoa. Trong Văn nghệ số 6 tháng 10.1948, Đoàn Phú Tứ có bài Sân khấu mới, với những ý tưởng gợi mở: “Sân khấu Việt Nam đương trải qua cuộc thử lửa của kháng chiến. Nó đã rũ hết nước sơn hào nhoáng, và đồng thời phủi sạch bụi mốc, nó đang dằn lòng chịu thô kệch một thời gian, để rồi tự nó sẽ “lên nước” dần dần, dưới sự vuốt ve trau chuốt của những bàn tay âu yếm”.
Nếu soát lại lịch trình sân khấu hiện đại Việt Nam đi cùng với lịch sử dân tộc, thì ngay sau Cách mạng Tháng Tám và trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Đảng ta đã huy động một nguồn lực trí thức nhân sĩ vào chiến khu Việt Bắc, tích cực tham gia hoạt động văn nghệ, nhất là hoạt động sân khấu kháng chiến. Theo kháng chiến, tất phải nhận đường, và có thể phải lột xác và rớm máu. Nếu tính theo chiều dài lịch sử của sân khấu Việt Nam hiện đại thì trước khi theo kháng chiến, những văn nghệ sĩ sân khấu từ trong tiềm thức yêu nước và tự tôn dân tộc, đã biết tự tạo những tiền đề cho cuộc xây dựng nền sân khấu Việt hiện đại, khi Việt Nam kết thúc 9 năm kháng chiến.
Tiêu biểu nhất là hai cha con Thế Lữ, Nguyễn Đình Nghi. Chính những hoạt động nỗ lực của Thế Lữ, đầu thế kỷ 20, xây dựng những ban kịch tài tử: Thế Lữ, Tinh Hoa, Anh Vũ và sự lôi cuốn những nhân vật văn nghệ rất nổi tiếng thời đó: Nguyễn Tuân, Lê Đại Thanh, Kim Lân, Song Kim, Kỳ Lân, Vi Huyền Đắc, Tú Mỡ, Phạm Văn Đôn, Phạm Văn Khoa... Và sân khấu Việt Nam hiện đại, qua các thời kỳ phát triển, đều có những nhà viết kịch tiêu biểu, kể từ kháng chiến chống Pháp là Nguyễn Huy Tưởng, Học Phi, Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ, rồi đến hòa bình, kháng chiến chống Mỹ, hậu chiến là: Nguyễn Đình Thi, Xuân Trình, Đào Hồng Cẩm, Học Phi, Hoài Giao, Tất Đạt, Hồng Phi... Và đặc biệt là nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, ngôi sao sáng của viết kịch thời đổi mới.
Chính là những nguyên tắc căn cơ về văn hóa: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng đã được giới sân khấu suy ngẫm, tìm tòi và hiện thực hóa bằng cả một chuỗi trình hoạt động. Về mọi phương diện, sân khấu, từ viết kịch bản đến dàn dựng, biểu diễn, thiết kế mỹ thuật, âm thanh, ánh sáng, để ra đời những chuỗi vở diễn hay, phục vụ đông đảo quần chúng. 80 năm đồng hành cùng lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam, Đề cương về văn hóa là kết tinh đẹp đẽ, tươi lành và sáng suốt nhất, trước hết, từ nhận thức triết học mác xít và nghiệm sinh mang tính tiên tri và chiến lược, do Bác Hồ chiêm nghiệm và rút ra trên con đường cứu nước mà Bác Hồ đã thân chinh lặn lội từ văn hóa phương Đông, sang văn hóa phương Tây. Và tất cả đã xuyên thấm thành đường lối phát triển văn hóa, trong hai văn kiện cốt lõi của Đảng ta với ý nghĩa khai phóng của một cuộc cách mạng văn hóa Việt Nam, thực sự trở thành ngọn đuốc soi đường cho quốc dân Việt Nam, đi đến những thành tựu văn hóa.
PGS.TS NGUYỄN THỊ MINH THÁI