Phát triển văn hóa đọc tại Việt Nam:
Học hỏi kinh nghiệm quốc tế để tăng tốc
VHO - Nhiều năm trở lại đây, phát triển văn hóa đọc tại Việt Nam đã có nhiều khởi sắc với các hoạt động khuyến đọc và sự đổi mới từ hệ thống thư viện. Tuy nhiên, so với nhiều quốc gia “nghiện sách”, nước ta vẫn còn khoảng cách.

Để văn hóa đọc thực sự bứt phá, Việt Nam cần tiếp tục học hỏi kinh nghiệm quốc tế, đồng thời áp dụng phù hợp với thực tiễn trong nước.
Khởi sắc nhưng cần bứt phá
Trong xu thế toàn cầu hóa, văn hóa đọc được coi là nền tảng quan trọng để hình thành xã hội học tập, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và sức mạnh mềm văn hóa của Việt Nam.
PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp (Chủ tịch Hội đồng Lý luận văn học - Hội Nhà văn Việt Nam) khẳng định, đọc sách sẽ góp phần nuôi dưỡng tâm hồn và định hình nhân cách cho thế hệ trẻ. Nhờ có văn hóa đọc, chúng ta biết yêu thương, chia sẻ, biết nhớ về cội nguồn. Văn hóa đọc cũng khiến chúng ta gắn với dân tộc, đồng thời hòa vào thế giới, nhân loại.
Việt Nam trong những năm qua đã có những bước đi quan trọng nhằm khuyến khích phát triển văn hóa đọc. Quyết định số 329/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã tạo khung chính sách rõ ràng để phát triển văn hóa đọc.
Các hoạt động như Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam; Hội sách; Tủ sách cộng đồng; Câu lạc bộ sách trong trường học… đã góp phần khơi dậy sự quan tâm của người dân đối với việc đọc.
Cùng với đó, hoạt động khuyến khích học sinh đọc sách không còn dừng ở khẩu hiệu mà đã được triển khai bằng nhiều hình thức thiết thực như các cuộc thi, tọa đàm, talkshow… Nhiều thư viện trường học và thư viện cộng đồng cũng chủ động đổi mới cách tiếp cận, cải thiện không gian và tài nguyên thư viện để tạo động lực cho thế hệ trẻ tìm đến với tri thức. Những nỗ lực này đã góp phần lan tỏa tinh thần ham đọc, đưa sách đến gần hơn với mọi người, đặc biệt trong thế hệ học sinh - sinh viên.
Tuy nhiên thực tế, việc phát triển văn hóa đọc ở nước ta vẫn đối mặt với nhiều bất cập. Không ít thư viện tại các địa phương gặp khó khăn về kinh phí nên chưa thể thực hiện đầu tư. Vì thế, thư viện nhiều nơi chưa đủ sức hấp dẫn để trở thành “không gian sống” của những người yêu sách.
Các mô hình thư viện hiện đại ứng dụng công nghệ, tạo trải nghiệm đa chiều cho bạn đọc cũng chưa thật sự phổ biến rộng rãi. Trong khi đó, việc số hóa tài nguyên sách, vốn được kỳ vọng là chìa khóa bắt kịp thói quen công nghệ của độc giả trẻ, vẫn triển khai chậm và thiếu đồng bộ, khiến khả năng tiếp cận sách điện tử và dữ liệu mở còn rất hạn chế.
Theo thống kê, trung bình mỗi người Việt chỉ đọc 1-4 cuốn sách/ năm, thấp hơn nhiều so với các quốc gia lân cận như Singapore (14 cuốn), Malaysia (17 cuốn) hay Nhật Bản (10-20 cuốn). Đáng nói, trong số 4 cuốn này thì gần 3 cuốn là sách giáo khoa hoặc sách tham khảo, nghĩa là trung bình một người Việt chỉ khoảng 1 cuốn sách ở các thể loại khác mỗi năm. Những con số này cho thấy việc phát triển văn hóa đọc vẫn còn nhiều việc phải làm, để đọc sách trở thành nhu cầu tự thân, phục vụ cả nhu cầu học tập lẫn giải trí.
Nhìn từ những quốc gia “nghiện sách”
Để văn hóa đọc phát triển hơn nữa, Việt Nam cần tăng cường học hỏi kinh nghiệm quốc tế và áp dụng phù hợp với thực tế. Phần Lan là một minh chứng điển hình khi hệ thống thư viện công cộng hiện đại được đẩy mạnh xây dựng, phát triển trở thành không gian học tập, sáng tạo và giao lưu tri thức cho mọi tầng lớp.
Nước này coi đầu tư cho thư viện là đầu tư cho tương lai, theo đúng quan niệm: “Các thư viện cần phải hướng tới thế hệ mới. Thế giới đang thay đổi, thư viện cũng cần thay đổi. Thư viện chính là không gian để mọi người gặp gỡ, làm việc và phát triển kỹ năng số”.
Tại Singapore, để phát triển văn hóa đọc và khuyến khích học tập thông qua việc sử dụng thư viện, Hội đồng Thư viện Quốc gia Singapore (NLB) xây dựng chiến lược phát triển văn hóa đọc và học dựa trên 5 nguyên tắc: Nhu cầu của người đọc trong tương lai; Tiêu chuẩn cơ bản về dịch vụ thư viện ở Singapore trong mối tương quan với các nước khác; Hướng đến các nhóm người sử dụng yếu thế trong xã hội (có thu nhập thấp, không có điều kiện đến thư viện); Tối ưu hóa nguồn lực thư viện và xã hội hóa hoạt động thư viện; Dịch vụ phù hợp với sáng kiến của Thư viện Quốc gia.
Mô hình “thư viện toàn diện” kết hợp công nghệ số với các dịch vụ truyền thống của nước này cũng đã giúp sách đến gần hơn với độc giả trẻ; là nơi học tập, giải trí hiệu quả của những gia đình đa thế hệ.
Cùng với học tập kinh nghiệm từ những nước có người dân mê sách, tại Việt Nam, một trong những hướng đi quan trọng là phải phát triển hệ thống thư viện công cộng hiện đại theo mô hình mở, không chỉ cung cấp sách mà còn tổ chức các hoạt động văn hóa, tọa đàm, thảo luận, trở thành điểm đến hấp dẫn của cộng đồng. Bên cạnh đó, cần chú trọng giáo dục thói quen đọc từ sớm, đưa các chương trình khuyến đọc vào trường học, đồng thời khuyến khích cha mẹ cùng đọc sách với con để hình thành môi trường gia đình gắn bó với tri thức.
Song song đó, số hóa thư viện, phát triển thư viện điện tử và các ứng dụng đọc sách trực tuyến sẽ giúp sách đến gần hơn với mọi người dân, xóa bỏ rào cản về địa lý. Ngoài ra, cần huy động sự tham gia của toàn xã hội, trong đó có doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân tâm huyết với sách, để xây dựng tủ sách cộng đồng, xe sách lưu động, hỗ trợ người dân ở vùng sâu, vùng xa.
Mỗi giải pháp chỉ thực sự hiệu quả khi được triển khai đồng bộ và có sự chung tay của nhiều lực lượng. Đọc sách không chỉ là hoạt động cá nhân mà còn là thói quen văn hóa cần lan tỏa, nuôi dưỡng trong cộng đồng. Học hỏi cách làm của các quốc gia thành công, kết hợp với thực tiễn Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng một xã hội đọc sách rộng khắp, góp phần nâng cao dân trí, bồi đắp tâm hồn và tri thức cho mỗi công dân.