Xung quanh phát hiện hai thuyền cổ “kỳ lạ” ở Bắc Ninh

Niên đại Đông Sơn hay thời Lý, Trần

NGỌC TRUNG - LÂM SƠN; đồ họa: MẠNH LÊ

VHO - Với kết cấu độc đáo, kỹ thuật đóng thuyền tinh xảo cùng những dấu hỏi lớn về niên đại, thuyền cổ Bắc Ninh hứa hẹn mở ra những khám phá quan trọng về lịch sử giao thương và kỹ thuật hàng hải của người Việt xưa. Hội thảo “đầu bờ” vừa diễn ra đã bước đầu cung cấp nhiều dữ liệu quan trọng, song để xác định chính xác niên đại và công năng của thuyền, các nhà khoa học vẫn cần tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu.

Niên đại Đông Sơn hay thời Lý, Trần - ảnh 1

Bước đầu nhận diện thuyền cổ

Ngày 26.3, tại cuộc hội thảo đánh giá sơ bộ kết quả khai quật (hội thảo “đầu bờ”), TS Phạm Văn Triệu, người chủ trì cuộc khai quật khẩn cấp hai chiếc thuyền cổ vừa được phát hiện tại Bắc Ninh, đã cung cấp một số thông tin ban đầu về hiện vật.

Về cấu trúc, đáy thuyền được làm từ thân cây nguyên khối (độc mộc làm lòng cốt) có đường kính 95 cm, bên trên ghép ván bằng mộng và chốt. Toàn bộ thuyền đều làm bằng gỗ, không có dấu tích kim loại hay hiện vật nào bên trong.

Hai thuyền được nối kiên cố với nhau bằng thanh giằng. Đây là lần đầu tiên kiểu kết cấu này được phát hiện, với nhận định ban đầu rằng thanh giằng này nằm ở phần mũi. Đuôi thuyền được đục thủng để lắp bánh lái.

Đáng chú ý, trên mạn thuyền có các khớp được đặt thẳng hàng, chạy dọc thân thuyền, dùng để đấu mặt sàn đặt trên hai thân thuyền. Diện tích mặt sàn ước tính có thể lên tới 100m², tạo nên một cấu trúc lớn chưa từng thấy.

Với cấu trúc cơ bản như vậy, có thể gọi hai con thuyền cổ này là một, tức thuyền hai lòng, thuyền hai đáy, hai thân hay như PGS.TS Bùi Minh Trí gọi là thuyền song thân, loại hình thuyền điển hình của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, không phải chịu ảnh hưởng của Đông Nam Á.

Về vị trí, thuyền nằm trên dòng sông Dâu, cách thành Luy Lâu 800m về phía Bắc. Sông Dâu chảy ở phía Tây thành Luy Lâu theo hướng Bắc - Nam, thuyền nằm chính hướng Đông - Tây, tức theo chiều ngang con sông, hướng mũi về lòng sông.

Dòng sông Dâu xưa rất rộng, có thể lên tới hàng trăm mét, là tuyến vận tải đường thủy quan trọng trong nhiều thế kỷ của buổi đầu công nguyên. “Dù thuyền cổ xuất hiện vào niên đại nào thì đều chứng minh cho giá trị thông thương của dòng sông Dâu xưa”, TS Triệu nhận định.

Niên đại Đông Sơn hay thời Lý, Trần - ảnh 3
Các chuyên gia khảo sát thuyền cổ Bắc Ninh

Kỹ thuật đóng thuyền chỉ có ở La Mã và Việt Nam

Các chuyên gia nhận định rằng, cấu trúc thuyền cổ Bắc Ninh có kỹ thuật đóng rất tinh xảo. Tại mỗi đầu thuyền, có bốn khối gỗ chốt vào đáy để gia cường vững chắc. Vách khoang có lỗ mộng đóng suốt từ trên xuống dưới - kỹ thuật chưa từng thấy ở Trung Quốc.

Phần độc mộc liền khối có vết gờ để đặt đà ngang, cố định hai mép độc mộc, chống ép và gia cường cho phần đáy. Ngoài chốt mộng, thuyền còn sử dụng mộng đuôi cá để ghép các tấm ván với nhau. Đây là kỹ thuật ghép gỗ rất tiến bộ, đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, đặc biệt trong điều kiện không sử dụng đinh kim loại.

TS Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á nêu ra phát hiện tạo dáng ván không phải thẳng bình thường theo hình chữ V mà hơi uốn lượn, đòi hỏi kỹ thuật cao, rất khó thực hiện, đặc biệt là trong điều kiện không dùng đinh kim loại.

Ông Việt cũng cho biết kỹ thuật này từng được ông phát hiện trên một con thuyền cổ thời Đông Sơn tại Động Xá (Hưng Yên). Khi đó, GS Peter Bellwood (Đại học Quốc gia Australia) đã rất ngạc nhiên vì kỹ thuật này trước đây chỉ thấy ở thuyền của đế chế La Mã.

Niên đại Đông Sơn hay thời Lý, Trần - ảnh 4
TS Phạm Văn Triệu giới thiệu về chiếc thuyền cổ ở Bắc Ninh

“Thuyền cổ Bắc Ninh cũng áp dụng kỹ thuật này, với các lỗ mộng có đường kính 28-30 cm, nối bằng thanh chốt có hãm”, TS Việt nhận định. Ông cũng dẫn lời GS Bellwood: “Kỹ thuật đóng thuyền này có thể xuất hiện ở Việt Nam trước cả La Mã”.

Dù vậy, công năng của chiếc thuyền song thân này vẫn còn là câu hỏi lớn. PGS.TS Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam cho rằng, đây có thể là thuyền chở hàng vì lòng rất sâu. Mỗi thuyền chia làm 6 khoang, khoang sâu nhất tính từ mạn xuống đáy là 1,8m, dung tích ước chừng 4m3.

“Tôi từng khai quật tàu lớn hơn ở Cù Lao Chàm, lòng rộng tới 6m, rất sâu. Toàn bộ hàng hóa chở dưới đáy, con người đi lại bên trên”, ông Tín cho biết.

PGS.TS Bùi Minh Trí lại đưa ra quan điểm, với quy mô thuyền song thân này có thể là thuyền trung chuyển từ sông ra biển và chở hàng nhẹ nhưng không phải thuyền buôn, vì lòng thuyền không rộng.

Ông Trí cũng đặt ra giả thuyết rằng có thể chiếc thuyền cổ này từng được dùng làm du thuyền của giới quý tộc xưa, với dẫn chứng đời nhà Lý từng dùng thuyền chở triều đình và có cả bếp ăn trên thuyền về hành cung Ngự Thiên tại Long Hưng, Thái Bình.

Trong khi đó, TS Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á lại đưa ra quan điểm con thuyền có thể mang tính lễ nghi.

Niên đại Đông Sơn hay thời Lý, Trần - ảnh 5
Các chuyên gia tham gia thảo luận trong cuộc Hội thảo “đầu bờ”

Dấu hỏi lớn về niên đại

Như PGS.TS Tống Trung Tín nhấn mạnh, mối quan tâm hàng đầu hiện nay là niên đại con thuyền “Bất niên hiệu, bất thành sử”, ông nhấn mạnh.

PGS.TS Tống Trung Tín nhận định có thể tạm thu hẹp phạm vi niên đại: “Từ thời Đường trở về trước không có loại hình thuyền này, từ thời Minh trở về sau cũng không có. Do đó, thuyền có thể thuộc thời Lý hoặc Trần”.

TS Phạm Văn Triệu cũng đưa ra đánh giá: “Thuyền này khác biệt thời Lê, Nguyễn”. Sử liệu cho thấy, vào năm 1106, triều đình nhà Lý từng sai đóng “thuyền Vĩnh Long hai đáy”. Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi chép vào năm 1124: “Tháng giêng nhuận, đóng thuyền Tường Quang, kiểu hai lòng”. Thông tin này đã được Báo Văn Hóa đăng tải ở bài viết trước. Từ thế kỷ XV trở đi, kỹ thuật đóng thuyền đã có nhiều thay đổi, trong đó có việc sử dụng đinh kim loại.

Trong khi đó, TS Nguyễn Việt cho biết, kỹ thuật đóng thuyền này từng được phát hiện trên 13 hiện vật, có niên đại xác định bằng phương pháp carbon phóng xạ (C14) dao động từ 2.400 đến 1.800 năm trước, tương đương giai đoạn Đông Sơn muộn.

Dữ liệu này khiến ông đặt ra giả thuyết rằng thuyền cổ Bắc Ninh có thể thuộc thời kỳ này. Củng cố cho giả thuyết, TS Việt đưa ra dẫn chứng trong cuộc khai quật tại Châu Thang, Động Xá hay Yên Bắc, ông cũng phát hiện những hạt quả nhỏ và nhăn tương tự những gì phát hiện trong lòng thuyền cổ Bắc Ninh.

Tuy nhiên, TS Việt cũng thừa nhận kích thước con thuyền là điều gây kinh ngạc. Trước đây, thuyền lớn nhất thời Đông Sơn được phát hiện chỉ dài 8m, rộng 80cm. Trong khi đó, TS Phạm Văn Triệu đặt ra câu hỏi: “Phải chăng kỹ thuật đóng thuyền đã phát triển qua thời gian?”.

Dự kiến, trong 20 - 25 ngày tới, kết quả phân tích niên đại carbon C14 sẽ giúp làm sáng tỏ thêm bí ẩn về con thuyền cổ Bắc Ninh. (Còn tiếp)

Lúng túng trong vấn đề bảo quản?

Cũng tại cuộc hội thảo “đầu bờ”, vấn đề bảo quản và phát huy giá trị thuyền cổ Bắc Ninh được đặt ra. “Nóng hổi hơn hết là bảo tồn như thế nào”, PGS.TS Tống Trung Tín đặt ra vấn đề. “Bảo tồn tại chỗ hay đưa về bảo tàng. Nếu đưa về bảo tàng thì rất tốn kém. Con thuyền rất nhỏ trong Hoàng thành Thăng Long nếu bảo tồn đã tốn 1 triệu USD vào thời điểm 2012”.

Phương án khác là bảo tồn tại chỗ. Theo ông Tín, tại Chiết Giang (Trung Quốc) đã bảo tồn bằng cách xây bể lớn và giữ nguyên thuyền trong môi trường nước. Ông chia sẻ thêm: “Tôi cũng thấy lúng túng, không biết đề xuất giải pháp nào. Nhưng giải pháp hiệu quả nhất, rẻ nhất là để tại chỗ, lấp lại, chờ điều kiện khai quật tiếp”.

Tham gia góp ý, PGS.TS Bùi Minh Trí nêu thực trạng di dời là câu chuyện khó, ngay cả trên thế giới cũng chưa từng di chuyển mức độ lớn như vậy. Ông Trí cũng cho biết bảo tồn đồ gỗ là bảo tồn khó nhất, tốn kém nhất. “Cho nên tôi mong muốn chúng ta tập trung hướng tới kế hoạch bảo toàn tại chỗ đồng thời xử lý 3D toàn bộ con thuyền”, ông đưa ra quan điểm.