Niềm vui và tâm tư của nghề làm tranh dân gian Đông Hồ
VHO - Ngay sau khi tranh dân gian Đông Hồ được xướng tên di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của UNESCO, chúng tôi trở lại phường Thuận Thành (Bắc Ninh) để đắm mình trong không khí hân hoan và lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của những nghệ nhân nơi đây.

Ra đời cách đây khoảng 500 năm và từng có một thời kỳ phát triển hưng thịnh với 17 dòng họ làm tranh Đông Hồ. Tấp nập và nhộn nhịp là vậy, nhưng giờ đây chỉ còn lại ba gia đình còn giữ nghề làm tranh dân gian truyền thống, trong đó có rất ít nghệ nhân bám trụ; nhu cầu sử dụng tranh in khắc đang ngày càng giảm sút...
Có lẽ vì thế mà nghề làm tranh Đông Hồ cần được “bảo vệ khẩn cấp” với những giải pháp cấp bách cộng với sự vào cuộc mạnh mẽ của người dân.
Sau hàng chục năm cố gắng bảo tồn, lưu giữ nghề làm tranh như cách gìn giữ giá trị của cha ông để lại nên khi hay tin nghề làm tranh dân gian Đông Hồ của mình được công nhận di sản thế giới, nhiều người dân, nhất là những nghệ nhân lâu năm bày tỏ vui sướng.
Nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh kể, vào đúng hai giờ chiều ngày mùng 9 tháng 12 vừa qua, chồng bà là nghệ nhân Nguyễn Hữu Hoa có mặt trực tiếp tại lễ công bố đã gọi điện về nhà báo tin. Bà Oanh cho biết không thể giấu được sự xúc động: “Gia đình tôi lúc ấy vỡ òa trong hạnh phúc bởi rất vinh dự, tự hào sau bao năm tâm huyết với nghề mãi đến nay nghề làm tranh của dân làng mới được thế giới công nhận”.
Có thể thấy, không khí hân hoan phấn khởi này không chỉ lan tỏa tới những người trực tiếp làm nghề như bà Oanh, mà ngay cả những người dân sinh sống trong làng, dù đã chuyển sang sinh kế khác cũng đều hòa chung một niềm vui khó tả. Cụ Bằng, một trong những hộ gia đình kinh doanh hàng mã, hồ hởi cho hay: “Nghe được tin này tôi mừng cho làng mình quá, vất vả bấy lâu nay rồi mãi mới nhận được trái ngọt”.
Sự công nhận quý giá này không chỉ là lời tri ân cho quá khứ mà còn là động lực mạnh mẽ cho tương lai của làng nghề. Nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả tin rằng, việc thế giới vinh danh làng nghề và khẳng định vai trò của nghệ nhân cũng đồng nghĩa với việc “truyền nghề, đào tạo bắt buộc phải nâng lên” một cách bài bản hơn, xứng tầm với di sản.
Với nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh, người phụ nữ duy nhất còn miệt mài bên ván khắc, mang trong mình trọng trách của hai dòng họ lớn, sự kiện này càng thúc đẩy bà phải cố gắng hơn nữa: “Giờ đã là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới dù là cần bảo vệ khẩn cấp, thì mình càng phải trau dồi, tìm hiểu và từ đó càng phải làm tốt hơn để hướng dẫn, truyền dạy cho các con cháu”. Đi kèm với đó chính là vun đắp thêm niềm tin, “ngọn lửa” tâm huyết trong từng nghệ nhân để họ có thể tiếp tục bám vững với nghề và tổ chức truyền dạy cho các thế hệ sau về văn hóa làng nghề, xua tan đi cái “trống vắng” trong thời kỳ làng nghề bên bờ mai một.

Mặc dù mang trong mình niềm tự hào sau bao thăng trầm của lịch sử, nhưng những người “giữ lửa” nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vẫn đang đối mặt với nhiều nỗi trăn trở hiện hữu, điều có thể thấy rõ rệt nhất chính là bài toán kinh tế và đầu ra cho sản phẩm.
Nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả khẳng định: “Nếu đầu ra ổn định, thị trường tốt, thì chắc chắn cả làng đều có thể quay lại làm tranh bởi ai cũng biết kỹ năng về nghề. Nhưng nếu đầu ra không đảm bảo thì người ta cũng bỏ hết để chuyển sang làm hàng mã”. Nghệ nhân này cho biết thêm, “hiện chi phí cho nguyên vật liệu khó kiếm hơn trước nhiều, giá thành lại đội lên rất cao, hỏi có mấy người còn muốn giữ nghề hay không?”.
Cũng chính từ những khó khăn, vất vả đó mà việc truyền dạy nghề và thu hút thế hệ trẻ tiếp nối trở nên rất gian nan. Ông Quả chia sẻ: “Mấu chốt vẫn là đầu ra của sản phẩm. Sản phẩm tranh in ván khắc gỗ không có đầu ra thì người trẻ cũng không trụ lại với nghề được lâu”.
Điều đó cũng chính là những mong muốn của nhiều nghệ nhân: Được sự quan tâm từ các cấp, chính quyền hỗ trợ về đầu ra sản phẩm tốt hơn, để những sản phẩm thủ công có giá trị văn hóa sâu sắc như tranh dân gian Đông Hồ được biết tới nhiều hơn trong tương lai, phần nào vơi bớt nỗi lo trong lòng của người làm nghề. Đi kèm với sự mai một về làng nghề còn có thể thấy được nguy cơ về văn hóa bị mai một.
Những sự trăn trở của nghệ nhân làng tranh dân gian Đông Hồ cũng phần nào phản ánh thực tế về nỗi trầm lắng của làng nghề nơi đây. Theo hồ sơ đề cử của di sản mà chúng tôi tiếp cận được, hiện số lượng nghệ nhân lành nghề đang giảm mạnh do thế hệ trẻ ít quan tâm; nghề hiện khó đảm bảo sinh kế, đặc biệt nhu cầu sử dụng tranh in khắc gỗ trong các dịp lễ truyền thống giảm sút, vì thế sản phẩm làm ra lượng tiêu thụ ít ỏi.
Bên cạnh đó, số người có tay nghề cao và tâm huyết theo đuổi nghề đã quá ít để duy trì việc truyền dạy và làm tranh hiện nay. Trước thực trạng ảm đạm này của di sản, chính quyền địa phương và cơ quan chức năng đã xây dựng kế hoạch bảo vệ, trong đó đề ra bảy mục tiêu cụ thể nhằm có bước phục hồi mạnh mẽ nghề làm tranh dân gian Đông Hồ, bao gồm: Mở các lớp truyền nghề, kiểm kê di sản, thiết kế mẫu, đa dạng hóa thị trường, cải thiện khả năng tiếp cận nguồn nguyên liệu, đồng thời cung cấp thiết bị bảo hộ cho nghệ nhân. “Các hoạt động được đề xuất khả thi, phù hợp với mục tiêu và tính bền vững, đồng thời đặt cộng đồng ở vị trí trung tâm”, hồ sơ đề cử di sản nêu.
Hy vọng trong tương lai gần, di sản nghề làm tranh dân gian Đông Hồ sẽ “sáng bừng trên giấy điệp” khi các cơ quan có liên quan thực thi đầy đủ các cam kết; cộng đồng nghệ nhân vào cuộc mạnh mẽ và thú chơi tranh dân gian dần trở lại trong cuộc sống đương đại.

RSS