“Khúc cua” đẹp nhất của người lính xe tăng 390

BẢO NGÂN

VHO - Nửa thế kỷ trôi qua, cựu chiến binh Nguyễn Văn Tập, người cầm lái xe tăng lịch sử 390 năm xưa xúc động, trong suốt nhiều năm chiến đấu và cả những năm tháng sau này, ông đã trải qua nhiều hoàn cảnh ngặt nghèo, nhiều cung đường đáng nhớ. Thế nhưng, khúc cua đưa xe tăng 390 húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập chính là “khúc cua” đẹp nhất trong cuộc đời, mãi mãi ông không thể nào quên.

Ký ức một thời đạn bom, một thời lửa đạn đã được những con người làm nên lịch sử cùng ôn lại, và kể cho thế hệ hôm nay tại cuộc giao lưu, tọa đàm nhiều cảm xúc: “Hà Nội - Ý chí và niềm tin quyết thắng”.

“Khúc cua” đẹp nhất của người lính xe tăng 390 - ảnh 1
Lãnh đạo Sở VHTT Hà Nội, Bảo tàng Hà Nội tặng hoa các nhân chứng lịch sử tham gia chương trình giao lưu

“Mừng khôn xiết nhưng nước mắt lại cứ tuôn trào”

Mỗi câu chuyện là một hồi ức sống mãi cùng năm tháng. Hội trường lớn tại Bảo tàng Hà Nội khi lặng đi, khi vang dội tiếng vỗ tay theo nhịp cảm xúc của câu chuyện về ngày 30.4.1975. Đặc biệt là thời khắc xe tăng của bộ đội ta húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập.

Có mặt tại buổi giao lưu, những người lính trên xe tăng 390 lịch sử gồm Trưởng xe Vũ Đăng Toàn, pháo thủ Ngô Sỹ Nguyên, lái xe Nguyễn Văn Tập, Đại đội trưởng Phạm Duy Đô đã cùng kể câu chuyện trước thời khắc phất cờ chiến thắng trên tầng hai Dinh Độc Lập lúc 11h30 ngày 30.4.1975.

Đại úy Vũ Đăng Toàn, nguyên chỉ huy xe tăng 390 xúc động, khi đánh chiếm Dinh Độc Lập, ông luôn nghĩ về Thủ đô, về Bác Hồ. “Những lúc ác liệt nhất, đặc biệt ở đoạn cầu Sài Gòn, chúng tôi hội ý bằng bất kỳ giá nào cũng tổ chức cho đại đội vượt cầu giành thắng lợi. Sau đó, đại đội chia thành hai tốp để vượt cầu. Đến gần Dinh Độc Lập, xe tăng 390 và 834 đi hai đường khác nhau, tôi ra lệnh cho lái xe 390 tông thẳng vào cổng”, ông Vũ Đăng Toàn nhớ lại.

Cựu chiến binh Nguyễn Văn Tập, người lái xe tăng 390 húc đổ cánh cổng chính Dinh Độc Lập, làm nên giây phút lịch sử đánh dấu sự sụp đổ của chế độ Ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Ông xúc động nói, trong suốt nhiều năm chiến đấu, ông đã trải qua nhiều hoàn cảnh ngặt nghèo, nhiều cung đường đáng nhớ. Thế nhưng, khúc cua đưa xe tăng 390 húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập chính là “khúc cua đẹp nhất” của cuộc đời ông.

“Sau khi xe 390 húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập, các xe còn lại của Đại đội 4 cũng đã tiến vào bên trong Dinh Độc Lập. Tiếp đến, các xe tăng của Binh chủng tăng thiết giáp theo 5 cánh quân cũng tràn vào Sài Gòn. Thời khắc đó, các đường phố trong nội thành Sài Gòn tràn ngập cờ, hoa… Những người lính chúng tôi vui mừng khôn xiết, nhưng nước mắt lại cứ tuôn trào vì hạnh phúc”, ông Nguyễn Văn Tập bồi hồi.

Xe 843 của đồng chí Bùi Quang Thận đang đi thẳng vào cổng chính nhưng lại ngoặt quay sang cổng phụ, cách đó mấy mét thôi.

Còn xe tăng 390 đến thì không cua đi đâu cả, tôi xin ý kiến anh Vũ Đăng Toàn thì anh nói cứ đâm thẳng luôn.

Xe chúng tôi nhấn ga đâm thẳng vào cổng Dinh Độc Lập rồi tiến thẳng vào sân, lúc đó đồng chí Bùi Quang Thận cầm cờ chạy từ ngoài cổng vào.

Sau đó xe tăng 390 chạy chậm lại để yểm trợ, anh Vũ Đăng Toàn cũng cầm theo khẩu AK nhảy xuống xe chạy theo anh Thận cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập…

(Trung sĩ NGÔ SỸ NGUYÊN, pháo thủ trên xe tăng 390)

Trung sĩ Ngô Sỹ Nguyên, pháo thủ trên xe tăng 390 cũng nhớ lại khoảnh khắc lịch sử, khi 2 xe tăng 390 và 843 cùng gặp nhau.

“Xe 843 của đồng chí Bùi Quang Thận đang đi thẳng vào cổng chính nhưng lại ngoặt quay sang cổng phụ, cách đó mấy mét thôi. Còn xe tăng 390 đến thì không cua đi đâu cả, tôi xin ý kiến anh Vũ Đăng Toàn thì anh nói cứ đâm thẳng luôn. Xe chúng tôi nhấn ga đâm thẳng vào cổng Dinh Độc Lập rồi tiến thẳng vào sân, lúc đó đồng chí Bùi Quang Thận cầm cờ chạy từ ngoài cổng vào. Sau đó xe tăng 390 chạy chậm lại để yểm trợ, anh Vũ Đăng Toàn cũng cầm theo khẩu AK nhảy xuống xe chạy theo anh Thận cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập…”.

“Rất may mắn lịch sử ưu ái tôi được chứng kiến mốc son lịch sử đó, chúng tôi tự hào vì đã hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao. Quân ta đã đổ quá nhiều máu, đồng bào hy sinh quá nhiều. Khi đó chúng tôi đã nghĩ, giây phút này mình đánh, mình húc đổ cả một chế độ, đánh bại quân thù, rất đáng tự hào”, ông Ngô Sỹ Nguyên kể lại.

“Khúc cua” đẹp nhất của người lính xe tăng 390 - ảnh 2
Những nhân chứng trên xe tăng 390 kể câu chuyện húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập, làm nên thời khắc lịch sử vào trưa 30.4.1975

Những khoảnh khắc “Đất nước trọn niềm vui”

Nửa thế kỷ trôi qua, ngày gặp lại của những chứng nhân lịch sử ở các thời khắc thiêng liêng trong lịch sử dân tộc đã khơi lên bao niềm xúc cảm. Trong ngày toàn thắng 30.4, Đài Phát thanh Sài Gòn phát đi bản tin đặc biệt.

Người đóng góp vào bản tin ấy là kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái, Chủ tịch đầu tiên của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (1963-1964). Ông là người giới thiệu chương trình đặc biệt để Tổng thống Chính quyền Sài Gòn Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.

Cũng trong bản tin, Chính ủy Lữ đoàn Xe tăng 203 Bùi Văn Tùng thay mặt Quân giải phóng tuyên bố Sài Gòn đã được giải phóng, chấp nhận sự đầu hàng của Tổng thống Chính quyền Sài Gòn.

Cảm động ôn lại khoảnh khắc lịch sử năm xưa, kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái đã bắt nhịp để cả khán phòng hát vang ca khúc “Nối vòng tay lớn” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Đây chính là bài hát đầu tiên được phát trên Đài phát thanh Sài Gòn sau giây phút Dương Văn Minh đầu hàng. Câu chuyện về hoàn cảnh sáng tác ca khúc “Năm anh em trên chiếc xe tăng” được nhạc sĩ Doãn Nho kể lại cũng mang đến cho người nghe nhiều cảm xúc.

Bài thơ “Năm anh em trên một chiếc xe tăng” được nhà thơ Hữu Thỉnh viết trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1970. Sau này, bài thơ được nhạc sĩ Doãn Nho phổ nhạc, trở thành ca khúc nổi tiếng.

Đại tá, nhạc sĩ Doãn Nho ở tuổi ngoài 90 minh mẫn kể lại hoàn cảnh ra đời của ca khúc bất hủ. Là nhạc sĩ của lực lượng vũ trang, từ năm 1947, nhạc sĩ Doãn Nho có mặt ở hầu hết chiến dịch, các trận đánh lớn.

Một lần tình cờ ông đọc được bài thơ của nhà thơ Hữu Thỉnh và cảm nhận thấm thía tinh thần, nghị lực của người lính xe tăng. Đó là lý do nhạc sĩ Doãn Nho sáng tác ca khúc với những giai điệu sống cùng năm tháng này.

“Khúc cua” đẹp nhất của người lính xe tăng 390 - ảnh 3
Chuyện kể từ những người làm nên lịch sử

Cũng có nhiều khoảng lặng đầy cảm xúc khi những đau thương, mất mát vì chiến tranh được nhắc lại. Trong ngày giải phóng, nhiều gia đình được đoàn tụ, nhưng cũng có những nỗi đau của nhiều gia đình mãi mãi là vết thương không thể lành.

Câu chuyện của gia đình nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Cát khiến nhiều người rơi nước mắt. Nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Cát có em trai là liệt sĩ, nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Bảo. Năm 18 tuổi, nhạc sĩ Vĩnh Bảo từ chối cơ hội du học để xung phong vào Nam, chiến đấu ở địa đạo Củ Chi.

Ông hy sinh năm 31 tuổi khi đang làm nhiệm vụ. “Vĩnh Bảo là tấm gương một nhạc sĩ từ Hà Nội vào Nam chiến đấu. Không có những sự hy sinh ấy, không thể có ngày đoàn tụ của nhiều gia đình…”, nhạc sĩ Vĩnh Cát xúc động nhớ về người em trai.

Thế hệ hôm nay còn được nghe nhiều câu chuyện đầy cảm xúc khác về một thời bom đạn từ dòng ký ức của những người làm nên lịch sử. Những đôi chân già nua, những mái đầu bạc trắng, giọng nói run run…, nhưng ký ức đã khắc sâu trong tâm khảm vẫn khiến những chứng nhân lịch sử luôn giữ gìn như tài sản vô giá.

Với bà Đặng Thị Ty, nguyên Trung đội trưởng Trung đội Dân quân đập Đáy (Đan Phượng), những ngày tháng hòa mình trong phong trào “Ba đảm đang” của địa phương là quãng thời gian không thể nào quên.

Tháng 2.1965, 12 chị em độ tuổi mười tám, đôi mươi, trong đó có bà Ty, được kết nạp Đảng, phân công làm nhiệm vụ trực chiến tại đập Đáy với khẩu súng 12ly7.

“Trong 3 nhiệm vụ của phong trào “Ba đảm đang”, nhiệm vụ thứ 3 cần sức khỏe. Nhưng với khẩu hiệu “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, chị em chúng tôi quyết tâm, ngày làm cỏ, cấy lúa, nuôi bèo hoa dâu, đêm đi đào mương tiêu và sẵn sàng chiến đấu…”, bà Ty nhớ lại.

Câu chuyện của bà Nguyễn Thị Sang cũng khiến cả hội trường ngập tràn tiếng vỗ tay. Năm 20 tuổi, bà được giao nhiệm vụ phụ trách những đoàn tàu quân sự chở bộ đội vào Nam tiếp viện cho Chiến dịch Mậu Thân năm 1968, tiếp nhận thương binh từ chiến trường ra Bắc để điều trị.

Cho đến bây giờ, những ngày tháng ấy vẫn chưa từng phai nhạt trong ký ức của bà. “Nhiệm vụ của người trưởng tàu thời bấy giờ là phụ trách chung cả đoàn. Tổ tàu “Ba đảm đang” toàn các đồng chí nữ, có 8 thành viên, phục vụ 13 đến 15 toa. Khi có máy bay địch đánh phá, thành viên tổ tàu phải phát tín hiệu cho tàu dừng kịp thời. Lúc đó, địa điểm hay bị oanh tạc nhất là ga Thanh Hóa”, bà Sang nhớ lại.

Câu chuyện của ông Nguyễn Xuân Thuần và ông Lê Xuân Tường đều nhập ngũ năm 1971, tham gia chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị năm 1972 đã đưa khán giả ngược dòng thời gian trở về những tháng năm khốc liệt nhưng hào hùng của dân tộc.

Đó là 81 ngày đêm giữ Thành cổ Quảng Trị; 12 ngày đêm Hà Nội đánh B-52… Đó không chỉ là những trận chiến gian khổ mà còn là biểu tượng của lòng quả cảm, ý chí kiên cường, của khát vọng hòa bình và độc lập.

Giám đốc Sở VHTT Hà Nội Bạch Liên Hương chia sẻ, chương trình giao lưu, với các chứng nhân lịch sử không chỉ là dịp để ôn lại những ký ức đáng nhớ mà còn để chúng ta bày tỏ lòng biết ơn đối với những anh hùng đã hi sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

 Đây cũng là cơ hội để mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ hiểu hơn về truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh kiên trung, bất khuất của các chiến sĩ cách mạng.