Phê bình văn học trước thời đại số
VHO - Trong bối cảnh văn hóa đọc dần lép vế trước văn hóa nghe - nhìn và mạng xã hội, đời sống phê bình văn học Việt Nam đang đối mặt với “khủng hoảng kép”: Vừa khủng hoảng uy tín khi tiếng nói học thuật mất dần ảnh hưởng, vừa khủng hoảng đạo đức nghề nghiệp bởi những biểu hiện “phê bình PR”, “bè phái”, sao chép tràn lan...

Từ hội thảo “Lý luận, phê bình văn học Việt Nam từ Đổi mới 1986 đến nay”, nhiều ý kiến của các học giả đã chỉ ra những nghịch lý của đời sống văn học đương đại: Sáng tác bùng nổ nhưng thiếu người đọc, phê bình thiếu tính chuyên nghiệp trong khi công chúng lại bị cuốn vào dòng chảy mạng xã hội.
Câu hỏi của GS Phong Lê - “Cái in ra thì nhiều, nhưng đến được với bạn đọc là bao nhiêu?” không chỉ là trăn trở với văn học, mà còn là lời cảnh tỉnh cho tương lai của văn hóa đọc Việt Nam.
Hành trình 40 năm nhìn lại
Phát biểu tại Hội thảo, TS Đặng Xuân Thanh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nhấn mạnh: Nhìn lại 40 năm qua, lý luận và phê bình văn học Việt Nam vừa đồng hành cùng sáng tác và công chúng yêu văn học, vừa góp phần xây dựng nền tảng tư tưởng, thẩm mỹ và tinh thần cho xã hội.
Sự kiện là dịp tổng kết, đánh giá thực trạng, ghi nhận thành tựu, chỉ ra hạn chế và dự báo xu hướng phát triển mới của lĩnh vực lý luận, phê bình văn học, đồng thời góp thêm tiếng nói khoa học vào quá trình tổng kết 40 năm Đổi mới đất nước. Tại đây, nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu, phê bình đã thẳng thắn nhìn nhận những thách thức đặt ra đối với lý luận và phê bình văn học hiện nay.
Theo PGS.TS Trịnh Bá Đĩnh (Ban Lý luận - Phê bình, Hội Nhà văn Việt Nam), có thể chia phê bình văn học sau Đổi mới thành ba giai đoạn: 1980-1995, 1996-2010 và 2010 đến nay, tương ứng với ba xu hướng chủ đạo: Phê bình tư tưởng hệ; Phê bình học thuật và Phê bình văn hóa. Ông cho rằng, hành trình 40 năm đổi mới của phê bình văn học cho thấy nó ngày càng bị chi phối mạnh mẽ bởi quá trình quốc tế hóa, công nghệ hóa và tác động của kinh tế thị trường.
Đề cập việc tái xác lập mối quan hệ giữa lý luận, phê bình, sáng tác và công chúng trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số, TS Hà Thanh Vân (Trung tâm Xúc tiến Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam) nhận định: Giới nghiên cứu hiện đang đối diện một “khủng hoảng kép” trong đời sống phê bình. Đó là khủng hoảng uy tín, khi tiếng nói học thuật dần mất ảnh hưởng trước công chúng và bị lấn át bởi mạng xã hội; cùng với khủng hoảng đạo đức nghề nghiệp, khi xuất hiện tình trạng “phê bình bè phái”, “PR trá hình”, “đánh bóng tên tuổi” hay sao chép, trích dẫn sai lệch.
Để vượt qua khủng hoảng này, TS Hà Thanh Vân đề xuất cần tái định vị vai trò của phê bình theo ba hướng: Từ phán xét sang đối thoại, giúp công chúng hiểu rõ hơn bản chất sáng tạo thay vì chỉ dừng lại ở khen - chê; Từ đóng kín sang liên ngành, mở rộng không gian phê bình sang điện ảnh, âm nhạc, nghệ thuật thị giác, truyền thông; Từ độc quyền sang chia sẻ, khuyến khích công chúng tham gia, nhưng dựa trên nền tảng tri thức và đạo đức nghề nghiệp vững vàng.
TS Hà Thanh Vân nhấn mạnh, trong thời đại bùng nổ mạng xã hội, khi ý kiến được lan tỏa và tương tác với tốc độ “khổng lồ”, đạo đức nghề nghiệp trở thành vấn đề sống còn của cả người viết lẫn người đọc. Người phê bình cần tránh hai thái cực: “Phê bình PR” làm mất tính khách quan và “phê bình công kích” làm mất tính nhân văn. Thái độ đúng đắn là “phê bình kiến tạo” - góp phần hoàn thiện tác phẩm, đồng thời nâng cao nhận thức, thị hiếu và thẩm mỹ cho công chúng.
“Thương” cho văn học
Câu hỏi của GS Phong Lê tại Hội thảo gợi nhiều suy ngẫm về thực trạng đời sống văn học và văn hóa đọc hiện nay: “Cái in ra thì nhiều, nhưng đến được với bạn đọc là bao nhiêu?”. Theo ông, trong khi phê bình văn học ngày càng yếu về tính chuyên nghiệp thì đời sống sáng tác lại bề bộn hơn bao giờ hết. Không thể đếm xuể có bao nhiêu cuộc thi được tổ chức, bao nhiêu thơ, truyện, tiểu thuyết, phê bình, tiểu luận được in ra mỗi năm.
“Nhìn vào các lĩnh vực nghệ thuật khác như hội họa, âm nhạc, điện ảnh mới thấy thương cho văn học. Khi mỗi cuốn sách in ra chỉ 300, 500, 1.000 hoặc nhiều lắm là 2.000 bản mà vẫn khó bán. Ngoại trừ những cuốn sách đặc biệt hay và được quảng bá tốt thì số lượng in mới cao hơn, nhưng trường hợp này rất hiếm. Có lẽ rồi cũng phải quen với việc các bạn trẻ sẵn sàng bỏ hàng triệu đồng mua vé xem idol biểu diễn, nhưng lại ngại ngần khi bỏ ra 50 nghìn để mua một cuốn sách”, GS Phong Lê trăn trở.
Theo ông, nếu trước đây, trong thời chiến, mỗi cuốn sách ở miền Bắc có thể in tới hàng vạn bản, thì nay chỉ cần trung bình 1.000 bản cho hơn 100 triệu dân đã được xem là “đủ”, trừ một số ngoại lệ. Bởi ngoài sách, con người đang có quá nhiều phương tiện để thỏa mãn nhu cầu tinh thần. Văn hóa đọc đang phải cạnh tranh gay gắt với văn hóa nghe - nhìn và cuộc cạnh tranh này càng trở nên khó khăn khi văn hóa mạng lên ngôi. Con người đang từ bỏ bút sắt, bút bi để đến với bàn phím, tiếp cận cả một thế giới thu nhỏ mà ta gọi là “thế giới phẳng”.
Cũng theo GS Phong Lê, không phải giới phê bình thiếu người tài, hay sáng tác không còn hấp dẫn. Thực tế, đội ngũ sáng tác hiện nay có nhiều tác giả thuộc thế hệ 7X trở về sau, không cần đến phê bình, họ vẫn có nhiều cách đến với bạn đọc, khi công nghệ thông tin và văn hóa mạng giúp việc quảng bá tên tuổi trở nên nhanh chóng, rộng khắp, nhất là khi tác giả đã trở thành một “thương hiệu”.
Trước những biến động của thời đại số, phê bình văn học Việt Nam cần được nhìn nhận không chỉ như một hoạt động đánh giá tác phẩm mà còn là cầu nối giữa người sáng tác và công chúng. Muốn thoát khỏi “khủng hoảng kép”, phê bình phải trở lại với tinh thần đối thoại, khách quan và nhân văn - nơi người viết, người đọc và người sáng tác cùng chia sẻ trách nhiệm gìn giữ giá trị thẩm mỹ và chân lý nghệ thuật. Chỉ khi văn hóa phê bình được khơi thông và văn hóa đọc được phục hồi, đời sống văn học mới có thể tìm lại vị thế xứng đáng trong xã hội hôm nay.

 
 RSS
RSS 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
