Tuần lễ “Làm mẹ an toàn” năm 2024 vận động bà mẹ sinh con ở cơ sở y tế:

An toàn cho mẹ, mạnh khỏe cho con

THẢO LAM

VHO - Sự kiện “Làm mẹ an toàn” năm 2024 đang diễn ra từ nay đến hết ngày 7.10 với chủ đề: Khám thai, sinh đẻ tại cơ sở y tế để an toàn cho mẹ, mạnh khỏe cho con, mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản; giảm tỷ lệ tai biến sản khoa, giảm tử vong mẹ và trẻ sơ sinh…

An toàn cho mẹ, mạnh khỏe cho con - ảnh 1
Tư vấn, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho chị em vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Theo Vụ Chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em (Bộ Y tế), những năm gần đây, công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em, sức khỏe sinh sản đã được quan tâm, đầu tư từ nguồn lực nhà nước thông qua các Chương trình Mục tiêu quốc gia.

Tuy nhiên, nhiều nội dung quan trọng như dự phòng, kiểm soát ung thư đường sinh sản, sàng lọc phát hiện sớm đái tháo đường thai kỳ, tăng huyết áp thai kỳ, dự phòng lây truyền HIV, viêm gan B, giang mai… từ cha mẹ sang con, chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên và thanh niên, sức khỏe sinh sản nam giới vẫn chưa có được cơ chế và nguồn lực tài chính ổn định để thực hiện.

Nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng, đồng thời vận động các cấp chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương quan tâm, chỉ đạo thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng cho bà mẹ và trẻ em, Bộ Y tế đã có công văn hướng dẫn các địa phương và các đơn vị liên quan triển khai Tuần lễ “Làm mẹ an toàn” năm 2024.

Các hoạt động tại sự kiện năm nay tập trung tăng cường khả năng tiếp cận của đồng bào dân tộc thiểu số đối với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng cho bà mẹ, trẻ em; góp phần giảm sự khác biệt về các chỉ tiêu sức khỏe, dinh dưỡng, tử vong mẹ, tử vong trẻ em giữa các vùng miền; hướng tới đạt được các mục tiêu phát triển bền vững vào năm 2030…

Bên cạnh đó, đẩy mạnh các hoạt động truyền thông về “Làm mẹ an toàn”, tập trung nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của cộng đồng về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ ở các vùng khó khăn. Thu hút sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, nhà hoạch định chính sách, người cung cấp dịch vụ và sự quan tâm của toàn xã hội, nhằm tăng cường sự tham gia của các đối tượng này vào hoạt động truyền thông và cung cấp dịch vụ về làm mẹ an toàn.

Tăng cường các hoạt động cung cấp dịch vụ chăm sóc trước, trong, sau sinh cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, đặc biệt là cho những người dễ tổn thương, người có hành vi nguy cơ cao, người dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số.

Trong Tuần lễ, mỗi trạm y tế xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tổ chức được ít nhất một hoạt động truyền thông về “Làm mẹ an toàn”; cung cấp thông tin cho 100% phụ nữ mang thai và phụ nữ sau sinh có mặt tại địa phương, ít nhất 30% số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ của xã và ít nhất 30% số gia đình, đặc biệt là người chồng của phụ nữ mang thai, sau sinh đang làm ăn, sinh sống trên địa bàn.

Bộ Y tế cũng đề nghị các địa phương tổ chức hội nghị, hội thảo, sinh hoạt câu lạc bộ tập trung phổ biến về các quy định pháp luật và các quy định liên quan đến chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em; tình trạng, số liệu về tử vong mẹ, tử vong trẻ em vẫn còn cao ở địa phương; tình trạng sinh đẻ tại nhà, không được cán bộ y tế hỗ trợ ở vùng đồng bào thiểu số… Từ đó làm rõ ý nghĩa và sự cần thiết phải thực hiện Tuần lễ “Làm mẹ an toàn”.

Chia sẻ kinh nghiệm, các mô hình có hiệu quả về chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, đặc biệt là bà mẹ và trẻ sau sinh. Các dịch vụ liên quan đến “Làm mẹ an toàn” chủ yếu tập trung vào 3 gói dịch vụ chăm sóc trước sinh; Hỗ trợ chăm sóc trong sinh; Hỗ trợ chăm sóc sau sinh. Hiện các dịch vụ vẫn được cung cấp thường quy theo chức năng, nhiệm vụ, chuyên môn của các đơn vị, nhưng trong Tuần lễ “Làm mẹ an toàn” cần được tăng cường hơn, tiếp cận được nhiều bệnh nhân hơn với hiệu suất và hiệu quả cao hơn.

 Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kết thúc giai đoạn 2016-2020, tỷ số tử vong mẹ trên toàn quốc đã giảm từ 58,3/100.000 xuống 45/100.000 trẻ đẻ sống. Phần lớn các chỉ số về chăm sóc trước, trong và sau sinh vẫn duy trì ở mức cao. Trên 80% số sản phụ được khám thai ít nhất 4 lần trong 3 thời kỳ thai nghén. Tỷ lệ đẻ tại cơ sở y tế đạt mức bao phủ phổ cập và có đến 96% cuộc đẻ có nhân viên y tế đã được đào tạo đỡ.

Các hoạt động chăm sóc trong tuần đầu sau sinh cũng bao phủ được hơn 75% số bà mẹ và trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, các chỉ số nêu trên vẫn còn sự khác biệt tương đối rõ rệt giữa các vùng miền, tỷ lệ thấp nhất là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên.

Nhìn chung, tốc độ cải thiện các chỉ số sức khỏe bà mẹ, trẻ em có xu hướng chậm lại so với những giai đoạn trước và sự khác biệt giữa các vùng/miền, các nhóm đối tượng chưa được thu hẹp một cách đáng kể.

Tỷ suất tử vong trẻ em (TVTE) ở Việt Nam giảm khá ổn định. Trong vòng hơn 20 năm (từ 2001-2022), TVTE dưới 5 tuổi đã giảm 2 lần (từ 39,6‰ xuống còn 18,2‰) và TVTE dưới 1 tuổi đã giảm gần 2,5 lần (từ 29,5‰ xuống còn 11,6‰).

Tuy nhiên, so sánh giữa các khu vực, tỷ suất TVTE dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi ở nông thôn còn cao hơn gấp đôi so với thành thị; các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên cao gấp gần 3 lần so với vùng Đông Nam Bộ và gấp đôi so với vùng Đồng bằng sông Hồng.

Theo ước tính của Liên Hợp Quốc, tử vong sơ sinh ở Việt Nam cũng đã giảm từ 15,04‰ năm 2001 xuống còn 9,96‰ vào năm 2021. Tuy nhiên, các số liệu thống kê sức khỏe sinh sản hằng năm cũng như kết quả một số nghiên cứu cho thấy tử vong sơ sinh vẫn chiếm tới khoảng 70% TVTE dưới 1 tuổi và 60% TVTE dưới 5 tuổi.

Tin liên quan

Ý kiến bạn đọc