Tín hiệu vui cho người ung thư vú
VHO- Đối với các nước, độ tuổi mắc ung thư vú thường là 60–65. Tuy nhiên, tại Việt Nam độ tuổi mắc ung thư vú trẻ hơn nhiều, thậm chí có những trường hợp phát hiện bệnh khi còn chưa lập gia đình hoặc mới bước vào ngưỡng cửa cuộc đời.
Độ tuổi ung thư vú ở phụ nữ ngày càng trẻ hóa
TS.BS Lê Thanh Đức (Trưởng khoa Nội 5, Bệnh viện K) cho biết, theo thống kê ở khu vực châu Á, Đông Nam Á, tỷ lệ ung thư vú trẻ khá cao, nhưng các nước Âu, Mỹ thì bệnh hay gặp ở người lớn tuổi.
Mắc bệnh ở tuổi đôi mươi
Còn ở một số nước châu Á – ngay cả Nhật Bản - người trẻ mắc ung thư vú khá cao, thậm chí có bệnh nhân chỉ mới 26- 27 tuổi. Riêng tại Việt Nam, tỷ lệ chị em độ tuổi 31- 36 mắc bệnh đã cao hơn các nước châu Âu, châu Mỹ.
Tại Bệnh viện K, khá nhiều bệnh nhân bị ung thư vú đang được điều trị còn rất trẻ, trong số đó không ít người chưa lập gia đình và có người vừa bước vào ngưỡng cửa đại học. Hồ Anh V, đang học đại học năm thứ 2 phát hiện bị ung thư vú giai đoạn 2B sau khi đi khám vì triệu chứng đau nhói mơ hồ và sờ thấy hạch ở ngực. Hiện tại, bệnh nhân V đang xạ trị tại Bệnh viện K được 9 tháng. BS Lê Thanh Đức cho hay, may mắn là bệnh nhân V đến bệnh viện và được điều trị kịp thời vì khối u vú chưa di căn. Không may mắn phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm như V, bệnh nhân Ánh T (Nam Định, sinh năm 1995) phát hiện ung thư vú khi mới 22 tuổi và cũng đang được điều trị tại Bệnh viện K. Nhưng trước đó, năm 2017, sau khi khám và làm các xét nghiệm, chụp chiếu cận lâm sàng, bác sĩ đã kết luận T bị ung thư vú phải, đã di căn đến gan.
Theo TS Lê Thanh Đức, ung thư vú có thể gặp ở nhiều độ tuổi khác nhau, vì vậy, ngay cả những phụ nữ trong độ tuổi 20 cũng không nên chủ quan mà cần có các biện pháp phòng ngừa. “Thực tế cho thấy, người trẻ tỷ lệ bệnh ung thư vú phát triển mạnh, nhanh hơn người già. Trong đó, tốc độ phát triển của tế bào ung thư mạnh hơn, độ ác tính cao hơn, thời gian giữ được ổn định cũng ngắn hơn”, TS Lê Thanh Đức nói.
Phát hiện sớm, việc điều trị sẽ hiệu quả hơn
Nhớ lại quãng thời gian 2 năm trước bị chẩn đoán ung thư vú, sau khi có triệu chứng đau nhói mơ hồ ở ngực, chị Nguyễn Thị M (35 tuổi, Hà Nội) nghĩ cuộc đời coi như sụp đổ, bởi con gái chị mới 4 tuổi. Thương mình mắc bệnh tật và thương con gái sẽ không được mẹ chăm sóc vì chị nghĩ sớm muộn mình cũng sẽ không qua khỏi. Thế nhưng, niềm hy vọng đến với chị khi bác sĩ cho biết mới mắc bệnh ở giai đoạn 1 – giai đoạn có thể cắt bỏ khối u mà vẫn bảo toàn vú. Sau một thời gian hóa xạ trị, trên cơ thể chị M đã không còn tế bào ung thư.
GS.TS Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K cho hay, ung thư vú là căn bệnh có thể điều trị khỏi hoàn toàn nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và đúng phương pháp, việc phát hiện càng sớm thì việc điều trị đơn giản, hiệu quả, tỷ lệ chữa khỏi cao và chi phí điều trị thấp. Tin vui cho những chị em mắc bệnh ung thư vú cũng như các y, bác sĩ tại Bệnh viện K bởi cụm công trình “Nghiên cứu Dịch tễ học, ứng dụng các tiến bộ mới trong chẩn đoán, điều trị và nâng cao chất lượng sống cho người bệnh ung thư vú” do GS.TS Trần Văn Thuấn và các đồng nghiệp, trong đó có TS Lê Thanh Đức nghiên cứu, thực hiện vừa được trao giải Nhất lĩnh vực Y Dược giải thưởng Nhân tài đất Việt vào cuối năm 2018.
Nói về đề tài, GS.TS Trần Văn Thuấn cho biết, đây là cụm công trình được các cán bộ nòng cốt Bệnh viện K tiến hành từ năm 1993 đến nay. Hiện nay, phác đồ điều trị này không những áp dụng tại Việt Nam, mà nhiều nước trên thế giới cũng áp dụng. “Cụm công trình được tiến hành trong suốt 25 năm, không chỉ nổi trội về nghiên cứu, hợp tác quốc tế, mà cụm công trình bao gồm tất cả các lĩnh vực từ dịch tễ, chẩn đoán, sinh học phân tử, mảng điều trị ngoại khoa, nội khoa, xạ trị… liên quan đến ung thư vú. Việc ứng dụng những kỹ thuật mới trong cụm công trình đã nâng cao tỷ lệ điều trị khỏi cho bệnh nhân ung thư vú lên đến 95% nếu phát hiện sớm. Tỷ lệ chữa khỏi ung thư vú ở viện K cho tất cả các giai đoạn tới 75%, tương đương các nước phát triển”, GS Thuấn nói.
Theo Giám đốc Bệnh viện K, tại Việt Nam vẫn có đến 50% bệnh nhân ung thư vú đến viện ở giai đoạn muộn, do đó việc tầm soát, sàng lọc có ý nghĩa vô cùng quan trọng với phát hiện sớm ung thư vú. Thống kê cho thấy, chỉ có 24,2% phụ nữ tự khám vú hằng tháng trong số những người tham gia chiến dịch sàng lọc, phát hiện sớm ung thư vú. “Hiệu quả sàng lọc ung thư vú rất rõ, rất mong thời gian tới BHYT sẽ chi trả tối thiểu cho việc khám sàng lọc, qua đó tăng được tỷ lệ người bệnh đi khám, điều trị sớm sẽ gia tăng tỷ lệ chữa khỏi, điều trị khỏi”, GS Thuấn cho biết.
QUỲNH HOA