Từ “nền tảng tinh thần” đến “nền tảng phát triển”

PGS.TS VŨ THỊ PHƯƠNG HẬU

VHO - Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn coi văn hóa là lĩnh vực có vị trí đặc biệt quan trọng, gắn với sự hưng thịnh của quốc gia, sức mạnh của dân tộc và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, cùng với yêu cầu của từng thời kỳ, nhận thức lý luận của Đảng về văn hóa luôn vận động, bổ sung, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

Từ “nền tảng tinh thần” đến “nền tảng phát triển” - ảnh 1
PGS.TS Vũ Thị Phương Hậu

 Bốn thập kỷ đổi mới vừa qua, văn hóa được Đảng khẳng định là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực của phát triển. Đến Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV, tư duy ấy được phát triển lên một tầm cao mới, khi Đảng nhấn mạnh: “Văn hóa là nền tảng phát triển của đất nước”. Đây là điểm mới có tính chất điều chỉnh khái niệm, mở rộng nội hàm và tái định vị văn hóa trong mô hình phát triển quốc gia.

Từ “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội”

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa VII (1993) khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”. Kể từ đó đến nay, Đảng ta luôn nhất quán khẳng định vai trò của văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội. Đây là một bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận về văn hóa, xuất phát từ nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa văn hóa, con người và tiến trình phát triển đất nước. Qua nhiều giai đoạn, luận điểm này đã chứng minh giá trị lý luận và thực tiễn bền vững, trở thành nền tảng tư tưởng định hướng cho các chiến lược văn hóa của Đảng.

Nội hàm của luận điểm bao gồm hai phương diện cơ bản: Thứ nhất, văn hóa với yếu tố cốt lõi là hệ giá trị đã tạo nên diện mạo tinh thần của quốc gia, bao gồm tư tưởng, đạo đức, lối sống, niềm tin, bản sắc, truyền thống và các chuẩn mực xã hội. Hệ giá trị này tạo nên tính ổn định của đời sống xã hội, định hướng hành vi, tạo sức mạnh gắn kết cộng đồng và hình thành bản lĩnh của con người Việt Nam. Trong những giai đoạn đất nước chuyển mình mạnh mẽ, đặc biệt là thời kỳ đầu đổi mới, các giá trị tinh thần này giữ vai trò trụ cột, giúp xã hội vượt qua khó khăn, tạo sự đồng thuận, thống nhất ý chí và nuôi dưỡng khát vọng phát triển.

Thứ hai, nền tảng tinh thần của văn hóa góp phần tạo động lực tinh thần cho công cuộc đổi mới và phát triển. Các giá trị như yêu nước, nhân ái, cần cù, sáng tạo, đoàn kết, trách nhiệm đã trở thành lực đẩy quan trọng của xã hội. Luận điểm “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội” vì thế phù hợp với yêu cầu đặt ra trong nhiều thập kỷ qua, góp phần ổn định xã hội, củng cố niềm tin, xây dựng con người mới, bảo tồn bản sắc, định hướng chuẩn mực và tạo môi trường tinh thần lành mạnh.

Có thể khẳng định, luận điểm “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội” đã trở thành một trong những thành tựu tư duy lý luận quan trọng trong đường lối văn hóa của Đảng, tạo cơ sở để hoạch định mục tiêu, phương châm, chiến lược và chính sách văn hóa trong 40 năm đổi mới. Tuy nhiên, cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ của đời sống thực tiễn, việc chỉ nhấn mạnh phương diện “nền tảng tinh thần” đã bộc lộ một số giới hạn nhất định, đặc biệt khi đặt văn hóa trong tương quan với mô hình phát triển quốc gia trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Đến “văn hóa là nền tảng của phát triển”

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV nhấn mạnh yêu cầu xác lập mô hình tăng trưởng mới dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực… phát huy sức mạnh nội sinh của dân tộc. Trong hệ thống các nguồn lực nội sinh đó, văn hóa và con người được xác định giữ vai trò trung tâm, quyết định tính bền vững của phát triển. Chính bối cảnh này đặt ra yêu cầu phải phát triển tư duy của Đảng về văn hóa, vượt lên phạm vi “nền tảng tinh thần”, để có thể đáp ứng đòi hỏi mới của mô hình tăng trưởng.

Trước hết, văn hóa cần phải được nhận thức như một trụ cột của mô hình phát triển, chứ không chỉ là lĩnh vực định hướng tư tưởng, đạo đức. Trong mô hình kinh tế hiện đại, các nguồn lực hữu hạn như đất đai, lao động giá rẻ hay vốn đầu tư không thể tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững. Thay vào đó, tri thức, sáng tạo, niềm tin xã hội, chuẩn mực văn hóa, đạo đức công vụ, văn hóa doanh nghiệp và bản sắc quốc gia trở thành những yếu tố quyết định chất lượng tăng trưởng. Do đó, tư duy văn hóa cần chuyển từ trọng tâm “củng cố tinh thần” sang trọng tâm “kiến tạo động lực phát triển”.

Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh nhưng phải bền vững đòi hỏi văn hóa giữ vai trò điều tiết và định hướng mô hình tăng trưởng. Nếu không có văn hóa dẫn dắt, phát triển có thể gây ra những hệ lụy như gia tăng bất bình đẳng, xói mòn chuẩn mực xã hội, khủng hoảng niềm tin, suy giảm chất lượng nguồn nhân lực. Vì thế, văn hóa cần được nhìn nhận như một yếu tố định hình mô hình phát triển hài hòa giữa kinh tế, xã hội, môi trường và con người.

Hơn nữa, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV nhấn mạnh yêu cầu phát triển con người Việt Nam toàn diện trong thời đại chuyển đổi số, kinh tế tri thức và hội nhập sâu rộng. Điều này đòi hỏi tư duy văn hóa phải bứt phá theo hướng coi văn hóa không chỉ nuôi dưỡng tinh thần mà còn tạo năng lực số, năng lực sáng tạo, phẩm chất nghề nghiệp, khả năng thích ứng và bản lĩnh văn hóa, đây chính là những yêu cầu cốt lõi của nguồn nhân lực chất lượng cao.

Đặc biệt là trong thực tế, văn hóa ngày càng trở thành nguồn lực trực tiếp của tăng trưởng kinh tế thông qua sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa. Trong nền kinh tế sáng tạo, giá trị gia tăng chủ yếu đến từ ý tưởng, bản quyền, thiết kế, công nghệ nội dung, tài sản văn hóa và sáng tạo nghệ thuật. Các lĩnh vực như điện ảnh, âm nhạc, quảng cáo, thiết kế, thời trang, game, truyền thông số, du lịch văn hóa… không chỉ góp phần phát triển đời sống tinh thần mà còn tạo ra doanh thu lớn, việc làm chất lượng cao, khẳng định hình ảnh quốc gia và năng lực cạnh tranh mới.

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV xác định cần khai thác mạnh mẽ các nguồn lực này, gắn với chuyển đổi số và kinh tế số, khẳng định văn hóa không chỉ “định hướng” mà còn đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế. Điều này đòi hỏi tư duy về văn hóa phải mở rộng từ “giá trị tinh thần” sang “nguồn lực phát triển”, từ “lĩnh vực xã hội” sang “động lực kinh tế”.

Có thể thấy, sự chuyển đổi từ quan niệm “văn hóa là nền tảng tinh thần” sang quan niệm “văn hóa là nền tảng phát triển” không chỉ bắt nguồn từ những biến thiên của bối cảnh mới mà còn là kết quả của sự phát triển nội sinh trong tư duy lý luận của Đảng. Đây là bước phát triển tất yếu của một hệ thống lý luận luôn vận động theo nhịp phát triển của đất nước, đồng thời phản ánh tầm nhìn ngày càng sâu sắc hơn về vai trò của văn hóa như một giá trị nền tảng, một nguồn lực đặc biệt và một cấu phần thiết yếu của mô hình phát triển quốc gia. Luận điểm mới không phủ định luận điểm cũ mà kế thừa và nâng lên tầm cao mới, phù hợp với quy luật phát triển của dân tộc trong thời đại kinh tế tri thức, công nghệ số và hội nhập sâu rộng.

Việc xác lập văn hóa là nền tảng của phát triển nhanh, bền vững đất nước đặt ra yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ tư duy quản lý văn hóa, đổi mới phương thức đầu tư, hoàn thiện thể chế và tạo không gian pháp lý cho các nguồn lực văn hóa phát huy đầy đủ vai trò. Văn hóa phải trở thành tiêu chí trong hoạch định chính sách phát triển; các ngành công nghiệp văn hóa cần được coi là ngành kinh tế quan trọng trong cơ cấu tăng trưởng; chỉ số văn hóa và chỉ số phát triển con người phải được xem như thước đo của sự phát triển bền vững. Điều này đòi hỏi một tầm nhìn chiến lược, đồng bộ từ trung ương đến địa phương, từ xây dựng thể chế đến phát huy các nguồn lực để phát triển văn hóa, con người.

Luận điểm văn hóa là nền tảng của phát triển đất nước trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV khẳng định một bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng về văn hóa, tái định vị văn hóa như một nguồn lực chiến lược và động lực nội sinh có ý nghĩa quyết định đối với mô hình phát triển quốc gia. Sự phát triển này không chỉ kế thừa những giá trị cốt lõi của đường lối văn hóa qua các thời kỳ mà còn mở ra không gian tư duy mới, phù hợp với yêu cầu kiến tạo mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và sức mạnh văn hóa, con người Việt Nam. Việc nâng tầm văn hóa lên vị thế “nền tảng phát triển” tạo cơ sở khoa học để xác lập những phương thức phát triển mới, nhấn mạnh vai trò của văn hóa trong điều tiết, dẫn dắt và bảo đảm tính bền vững của toàn bộ tiến trình phát triển đất nước.