Nhớ về Bộ trưởng Trần Huy Liệu:

Cuộc đời hòa cùng trang sử ngành Văn hóa

ĐÌNH TOÁN

VHO - Ngày 28.8.1945, trong Tuyên cáo của Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ Thông tin - Tuyên truyền, tiền thân của Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ VHTTDL) được thành lập. Ông Trần Huy Liệu là Bộ trưởng đầu tiên giai đoạn năm 1945-1946, đặt nền móng ý nghĩa cho chặng đường phát triển sau này của ngành Văn hóa - Thông tin. Không chỉ được biết đến với tư cách là một vị Bộ trưởng, nhà sử học, nhà báo, ông còn nổi tiếng là một nhà thơ với sự “mẫn cảm” của một nhà văn hóa yêu nước.

Cuộc đời hòa cùng trang sử ngành Văn hóa - ảnh 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng một số thành viên Chính phủ Cách mạng Lâm thời sáng ngày 3.9.1945 tại Hà Nội (Bộ trưởng Trần Huy Liệu đứng bên phải Bác Hồ). Ảnh: TƯ LIỆU CỦA TTXVN

Người đặt nền móng cho ngành Văn hóa - Thông tin

Trần Huy Liệu (1901-1969) là một trí thức tiêu biểu của Việt Nam thế kỷ XX; một nhân chứng và là người trực tiếp tham gia làm nên những sự kiện lịch sử trọng đại trong thời kỳ vận động cách mạng và buổi đầu Dân quốc. Ông quê ở làng Vân Cát (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Ðịnh). Chiếc nôi này là nơi Trần Huy Liệu có được sở học đầu tiên và chịu ảnh hưởng sâu sắc về mặt tính cách. Ông là con người kết tinh được nhiều năng lực xuất sắc mà cội rễ chính là lòng yêu nước, là tinh thần yêu chuộng văn hiến.

Trong những thăng trầm của lịch sử giai đoạn ấy, Bộ trưởng Trần Huy Liệu đã có một dấu ấn, tuy không dài, nhưng đã đặt một nền móng ý nghĩa cho chặng đường phát triển sau này của ngành VHTTDL. Đó là sự ra đời của Bộ Thông tin - Tuyên truyền, tiền thân của Bộ Văn hóa - Thông tin và nay là Bộ VHTTDL. Một năm giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin - Tuyên truyền, tuy không dài, nhưng dấu ấn của Bộ trưởng Trần Huy Liệu để lại cho ngành đã trở thành tiền đề để đội ngũ cán bộ công tác trong ngành VHTTDL phát huy, cống hiến; đưa ngành vững bước phát triển trong chặng đường 80 năm qua. Ông dành trọn tâm huyết với mong muốn đặt những “viên gạch” vững chắc nhất để phát triển ngành sau này.

Giữ chức Bộ trưởng và sau này ngay cả khi đã thôi chức vụ, điều ông luôn nêu cao là tinh thần tự soi, tự sửa để các cán bộ noi gương; phấn đấu, cống hiến hết mình vì sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc. Khi gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc với vai trò Chủ tịch, ông vẫn cùng nhà thơ Nguyễn Đình Thi và nhiều nhà văn, nhà thơ khác hoạt động văn nghệ để có những tác phẩm thấm đẫm tinh thần yêu nước, cách mạng và cổ vũ tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc.

Ngược dòng lịch sử, năm 1943, Đảng ta đã công bố “Đề cương về Văn hóa Việt Nam”. Trong đó nêu rõ: Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị và văn hóa). Như vậy, ngay từ đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thấy vai trò quan trọng của văn hóa, định hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam. Theo Tuyên cáo ngày 28.8.1945 của Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong nội các quốc gia, Bộ Thông tin - Tuyên truyền được thành lập (sau đó, ngày 1.1.1946 đổi tên là Bộ Tuyên truyền và Cổ động) - tiền thân của Bộ VHTTDL ngày nay. Từ đó, ngày 28.8 hằng năm đã trở thành Ngày Truyền thống của ngành VHTTDL.

Ngày 24.11.1946, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức tại Hà Nội. Trong khai mạc Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Văn hóa phải hướng dẫn quốc dân thực hiện Độc lập, Tự cường và Tự chủ”. Đây cũng chính là kim chỉ nam xuyên suốt mọi hoạt động của ngành.

Trải qua 80 năm thành lập, ngành Văn hóa - Thông tin đã được đổi tên qua từng giai đoạn, từ Bộ Thông tin - Tuyên truyền được đổi thành Bộ Tuyên truyền và Cổ động; Bộ Văn hóa và Thông tin; Bộ Văn hóa; Bộ Văn hóa, Thông tin, Thể thao và Du lịch; Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao; Bộ Văn hóa - Thông tin và đến nay là Bộ VHTTDL. Trong suốt quá trình phấn đấu và trưởng thành, ngành VHTTDL luôn phát huy truyền thống, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Công tác thông tin tuyên truyền, văn hóa tư tưởng luôn là một trong những mặt trận quan trọng, góp phần tích cực vào thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bước sang năm 2025, trải qua 80 năm hình thành và phát triển song hành cùng những giai đoạn thăng trầm của đất nước, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, đội ngũ cán bộ ngành VHTTDL đã đóng góp nhiều công sức, tâm huyết, có mặt ở khắp các mặt trận xuyên suốt hai cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại của dân tộc. 

Đội ngũ cán bộ văn hóa, văn nghệ sĩ trên cả nước đã không quản ngại khó khăn gian khổ, xông pha vào “mưa bom, lửa đạn” để vừa chiến đấu, vừa sáng tác nhiều tác phẩm cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Trang sử vàng hào hùng của dân tộc được tô đậm hơn với biết bao sự cống hiến quên mình, không mệt mỏi của hàng ngàn chiến sĩ văn hóa đã anh dũng hy sinh khi làm nhiệm vụ, vì sự nghiệp cách mạng và hạnh phúc của nhân dân. Mỗi cán bộ công tác trên lĩnh vực văn hóa - thông tin không chỉ nhận thức mình là những tuyên truyền viên mà còn phải là những cán bộ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; phải không ngừng nỗ lực nâng cao đời sống văn hóa cho người dân; để “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” như lời Bác dạy.

Cuộc đời hòa cùng trang sử ngành Văn hóa - ảnh 2
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cùng đoàn công tác Bộ VHTTDL thăm Di tích lịch sử Cách mạng Nha Thông tin (tiền thân của Bộ VHTTDL) tại xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (ngày 15.9.2022). Ảnh: TRẦN HUẤN

Dành trọn tâm huyết cho văn hóa, văn nghệ

Trần Huy Liệu sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo. Ông được đào tạo là để làm quan hay chí ít cũng là một nhà nho. Nhưng số phận, hay nói đúng hơn là tấm lòng yêu nước, thương dân sớm nảy nở từ năm Trần Huy Liệu còn là một cậu bé 13, 14 tuổi. Sẵn có “chất thơ” trong người, đến giai đoạn những năm 1920, những áng thơ của ông thấm đẫm sự phẫn chí với giặc Pháp và tinh thần yêu nước.

Dù trong hoàn cảnh nào, Trần Huy Liệu vẫn vẹn tình yêu cho thơ ca. Cuối năm 1929, thực dân Pháp đàn áp các phong trào cách mạng. Trần Huy Liệu bị bắt và bị kết án 5 năm tù, đày ra Côn Đảo. Trong tù, Trần Huy Liệu vẫn say mê làm thơ. Những bài thơ ông sáng tác tại Hòn Cau đều phản ánh tâm trạng sốt ruột, nhớ hoạt động bên ngoài, nhớ những anh em, đồng chí bị “rơi đầu, đổ máu” vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc. “Trống trận khua vang khắp địa cầu/ Riêng ai nằm xó bãi Hòn Cau/ Sa cơ vẫn thẹn mình thua sức/ Vì nước thêm thương bạn mất đâu…”. Tâm trạng ấy cứ nung nấu mãi trong ông để rồi đi đến những âm mưu thoát cảnh ngục tù, tìm đường trở về với cách mạng. Có thể nói, “chất thơ” đã hòa trong máu thịt của ông để làm nên một nhà cách mạng cương trực, thẳng thắn nhưng không kém phần lãng mạn.

Thơ Trần Huy Liệu chủ yếu là thơ của một nhà trí thức yêu nước. Ông đã mượn thơ để biểu đạt những tư tưởng yêu nước một cách thiết tha, đậm đà. Đọc thơ Trần Huy Liệu, ai ai cũng có thể nhận thấy ông là người giàu tình cảm. Đó có thể là lòng kính mộ đối với một liệt sĩ đã hy sinh vì đất nước như ở bài Nghe tin Phạm Hồng Thái hy sinh. Đó cũng có thể là sự xót thương đối với một chiến sĩ đã bỏ mình trong trận chiến với quân thù (Khóc Hồ Mạnh Thiết). 