Cần sớm phục hồi văn học chữ Hán
VHO - Trong dòng chảy văn học dân tộc, văn học chữ Hán là một bộ phận không thể tách rời, góp phần định hình nền văn hóa và tư tưởng Việt Nam suốt hàng chục thế kỷ. Từ khi nước ta giành được độc lập tự chủ (thế kỷ X) cho đến hết thế kỷ XIX, chữ Hán không chỉ là công cụ hành chính, mà còn là phương tiện biểu đạt trí tuệ, cảm xúc, nhân sinh quan của tầng lớp trí thức. Hàng nghìn tác phẩm được viết bằng Hán văn đã tạo nên một kho tàng đồ sộ, từ chính sử, văn bia, truyện chí, tản văn đến thơ ca. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, văn học chữ Hán đang đứng trước nguy cơ bị lãng quên, dù giá trị của nó vẫn còn nguyên tính thời sự.

Nguy cơ bị lãng quên
Di sản văn học bác học và nền tảng tư tưởng dân tộc Văn học chữ Hán ở Việt Nam không chỉ là sự tiếp thu mô hình văn học Trung Hoa mà là sự “Việt hóa chữ Hán” – sử dụng một ngôn ngữ vay mượn để thể hiện tinh thần dân tộc.
Nguyễn Trãi từng viết: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo” – một tấm lòng sáng tựa sao trời, thể hiện nhân cách và lý tưởng hành đạo vì dân, vì nước. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo, viết bằng Hán văn, là thiên cổ hùng văn khẳng định độc lập dân tộc, vừa mang vẻ đẹp ngôn từ, vừa chứa đựng triết lý chính trị sâu sắc.
Nguyễn Du với Thanh Hiên thi tập hay Nam trung tạp ngâm đã dùng chữ Hán để thể hiện tâm thế cô đơn của con người giữa thời biến, mở rộng chiều sâu nhân đạo của văn chương Việt.
Nguyễn Bỉnh Khiêm trong Bạch Vân am thi tập lại gửi gắm khát vọng ẩn dật, triết lý an bần lạc đạo, phản ánh tinh thần nhân sinh của trí thức thời Lê – Mạc. Có thể nói, văn học chữ Hán Việt Nam là ký ức tinh thần của cả một thời đại. Nó phản ánh toàn bộ tư tưởng Nho – Phật – Lão được bản địa hóa, góp phần định hình nhân cách và tư duy văn hóa Việt.
Dưới góc nhìn hiện nay, từ tôn vinh sang tái khám phá văn học chữ Hán đang có xu hướng dần mai một. Trước đây, việc nghiên cứu văn học chữ Hán chủ yếu nằm trong phạm vi văn bản học và ngữ văn học cổ điển, chú trọng dịch thuật và chú giải.
Nhưng những năm gần đây, nhiều học giả trẻ đã chuyển hướng nghiên cứu sang những lăng kính mới: văn hóa học, ký hiệu học, nghiên cứu giới và hậu thuộc địa.
Chẳng hạn, khi đọc lại Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, người ta không chỉ thấy tản văn chí quái chịu ảnh hưởng Trung Hoa, mà còn nhận ra diễn ngôn nữ quyền sơ khởi qua các truyện như: Nam Xương nữ tử truyện (Chuyện người con gái Nam Xương), Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây (trích trong Truyền kỳ mạn lục).
Nguyễn Du cũng được tiếp cận dưới góc nhìn văn hóa lưu vong, phản ánh thân phận con người trong thời đại biến động. Từ đây, văn học chữ Hán không còn là di sản quá khứ mà trở thành đối tượng đối thoại của hiện tại, góp phần soi chiếu những vấn đề nhân sinh, đạo đức và căn tính dân tộc.
Cần sớm phục hồi
Xét về thực trạng văn học chữ Hán, giá trị còn đó, nhưng người đọc thưa dần. Hiện nay, giới nghiên cứu văn học Hán Nôm vẫn đang nỗ lực duy trì mạch học thuật. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, các trường đại học như Khoa Văn học (Trường Đại học KHXH và NV thuộc ĐHQGHN), Đại học KHXH và NV TP. Hồ Chí Minh, Đại học Huế… vẫn tổ chức các hội thảo, xuất bản tuyển tập, và số hóa tư liệu.
Một số công trình gần đây như Văn học chữ Hán Việt Nam – vấn đề tác giả và tác phẩm (PGS. Trần Nghĩa), hay Thơ chữ Hán Nguyễn Du dưới góc nhìn thi học (Nguyễn Hữu Sơn) đã mang lại cách tiếp cận mới, công phu.
Tuy vậy, sự quan tâm của công chúng và thế hệ trẻ đang giảm mạnh. Thực tế, số lượng sinh viên theo học ngành Hán Nôm ngày càng ít, trong khi lớp chuyên gia kỳ cựu dần về hưu. Nhiều tác phẩm chưa có bản dịch hiện đại, khiến người đọc phổ thông khó tiếp cận. Các dự án số hóa văn bản Hán Nôm còn phân tán, thiếu nền tảng tra cứu liên thông.
Trong đời sống văn hóa đại chúng, chữ Hán gần như vắng bóng. Người trẻ chỉ còn biết đến vài tên tuổi như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi qua chương trình phổ thông, mà ít ai biết rằng hơn 70% sáng tác của các danh nhân ấy được viết bằng Hán văn.
Từ nguy cơ ngôn ngữ chết đến cơ hội hồi sinh tại thời điểm hiện nay là hết sức cần thiết. Điều đáng mừng là trong những năm gần đây, xuất hiện những tín hiệu phục hưng nhẹ. Nhiều nhóm nghiên cứu trẻ, cộng đồng mạng và người yêu chữ Hán – thư pháp bắt đầu quay lại với Hán tự, coi đó là con đường hiểu sâu hơn về văn hóa Việt.
Một số dự án như: Thư viện số Hán Nôm, Văn bia Việt Nam, hay các trang chia sẻ Hán Nôm học đường, Cổ văn Việt… đang giúp lan tỏa tri thức cổ điển bằng phương tiện số. Công nghệ số cũng mở ra khả năng bảo tồn và khai thác lại di sản như số hóa văn bản, tạo công cụ dịch tự động, xây dựng cơ sở dữ liệu mở để học giả trong và ngoài nước cùng tham gia.
Ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc – những nước đồng văn, công nghệ đã giúp họ tái sinh văn học cổ điển; Việt Nam hoàn toàn có thể làm tương tự, nếu có chính sách và đầu tư dài hơi.
Để phục hưng, cần một cách đọc mới và cách dạy mới. Văn học chữ Hán sẽ không thể sống lại nếu chỉ nằm trong thư viện hay giáo trình hàn lâm. Nó cần được tái hiện trong giáo dục, văn hóa đại chúng và truyền thông hiện đại. Các bản dịch cần được hiện đại hóa, gần gũi ngôn ngữ hôm nay mà vẫn giữ tinh thần nguyên tác. Có thể lồng ghép các trích đoạn văn học chữ Hán trong sách phổ thông hoặc các chương trình truyền hình, phim tài liệu về danh nhân, di sản văn hóa. Nên tổ chức cuộc thi, diễn đàn, hoặc podcast văn học cổ để đưa tinh thần Hán học đến công chúng trẻ.
Tại các khoa học chuyên ngành, nhà trường cần tổ chức cho sinh viên khảo cứu văn bia như một cách để tìm hiểu lịch sử, văn hóa và truyền thống hiếu học của Việt Nam. Các hoạt động bao gồm nghiên cứu về nội dung văn bia (thông tin các khoa thi, tên tiến sĩ), lịch sử hình thành và ý nghĩa của chúng, và quá trình ghi chép lịch sử qua từng triều đại.
Việc khảo cứu văn bia giúp sinh viên hiểu rõ hơn về vai trò của nền giáo dục Nho học nói chung và văn học chữ Hán nói riêng, vinh danh các trí thức Nho học đỗ đạt và ý nghĩa khuyến khích hiền tài của các triều đại phong kiến.
Đồng thời, cần sớm liên ngành hóa nghiên cứu và coi đó là xu hướng tất yếu. Kết hợp Hán Nôm với văn hóa học, lịch sử nghệ thuật, công nghệ dữ liệu để tạo những sản phẩm mới, như bản đồ văn học trung đại, ứng dụng đọc văn bản Hán – Nôm có chú giải tự động, hay tuyển tập thơ Hán – Việt song ngữ trên nền tảng số…
Văn học chữ Hán Việt Nam hôm nay có thể ít người đọc, nhưng chưa hề chết. Nó là nguồn năng lượng tinh thần ẩn sâu trong tâm thức dân tộc, là mạch nguồn văn hóa cần được khơi dậy bằng tư duy mới.
Như Nguyễn Du từng viết trong bài Độc Tiểu Thanh ký: “Cổ kim hận sự thiên nan vấn, Phong vận kỳ oan ngã tự cư.” Nỗi đau, nỗi thương đời của người xưa vẫn chạm tới trái tim con người hiện đại, chỉ cần chúng ta có cách đọc để nghe lại tiếng nói ấy.
Vấn đề không phải là văn học chữ Hán đã lùi vào quá khứ, mà là chúng ta có đủ tình yêu và trí tuệ để đối thoại với quá khứ ấy hay không. Khi di sản được đọc lại bằng con mắt hiện đại, nó không chỉ sống lại, mà còn soi sáng hiện tại.

RSS