Di sản cà phê toàn cầu và chiến lược nâng tầm giá trị cà phê Việt
VHO - Hội thảo khoa học tại Lễ hội Di sản cà phê toàn cầu 2025 bàn về chiến lược phát triển bền vững, chế biến sâu và nâng vị thế cà phê Việt đến năm 2050.

Trong bối cảnh thị trường cà phê toàn cầu biến động mạnh, Hội thảo khoa học cà phê quốc tế thuộc Lễ hội Di sản cà phê toàn cầu 2025 đã làm rõ những thách thức và cơ hội của ngành cà phê Việt Nam.
Các chuyên gia, nhà quản lý và doanh nghiệp cùng đề xuất những trụ cột phát triển bền vững, hướng tới nâng cao giá trị gia tăng và vị thế cà phê Việt trong chuỗi giá trị toàn cầu đến năm 2030, tầm nhìn 2050.
Biến động toàn cầu và thách thức của ngành cà phê Việt Nam
Dự báo về những biến động cà phê toàn cầu đến năm 2050 và thách thức đối với các quốc gia sản xuất, ông Lương Văn Tự, nguyên Thứ trưởng Bộ Công Thương, Chủ tịch Hiệp hội Thông tin, Tư vấn Kinh tế Thương mại Việt Nam (VICETA) cho hay, từ nay đến năm 2050, thị trường cà phê toàn cầu sẽ biến động mạnh, đặt ra nhiều thách thức đối với các quốc gia sản xuất, trong đó có Việt Nam.
Hiện nay, cà phê được trồng trên khoảng 10 triệu héc-ta, sản lượng toàn cầu xấp xỉ 10 triệu tấn mỗi năm và tiếp tục tăng trong ngắn hạn. Nhu cầu tiêu thụ duy trì đà tăng khoảng 2%/năm.
Về dài hạn, đến năm 2050, dân số thế giới dự kiến đạt gần 9,7 tỉ người, kéo theo nhu cầu cà phê - một trong bốn loại đồ uống phổ biến nhất toàn cầu sẽ tăng đáng kể. Brazil và Việt Nam tiếp tục giữ vai trò hai quốc gia sản xuất, xuất khẩu lớn nhất, trong khi tiêu thụ tập trung chủ yếu tại các thị trường phát triển như Hoa Kỳ, Đức, Ý và Nhật Bản.
Tuy nhiên, giai đoạn 2025 - 2050 được dự báo là thời kỳ nhiều sức ép. Biến đổi khí hậu khiến diện tích trồng Arabica bị thu hẹp, hạn hán và lũ lụt bất thường làm giảm sản lượng, chất lượng cà phê. Thực tế năm 2025 cho thấy, hạn hán tại Brazil và Việt Nam đã khiến sản lượng sụt giảm khoảng 10 - 15%.

Cùng với đó, các rào cản thương mại và môi trường ngày càng siết chặt, đặc biệt là quy định chống phá rừng của EU với yêu cầu nghiêm ngặt về truy xuất nguồn gốc và nguy cơ bị loại khỏi thị trường nếu vi phạm.
Đối với Việt Nam, ông Lương Văn Tự cho rằng ngành cà phê đang đứng trước cả cơ hội và thách thức đan xen. Năm 2025, diện tích cà phê ổn định khoảng 718.000ha, sản lượng niên vụ 2024 - 2025 ước đạt 1,86 triệu tấn. Kim ngạch xuất khẩu năm 2024 đạt mức kỉ lục với gần 7,9 tỉ USD, trong bối cảnh giá Robusta lần đầu tiên vượt Arabica.
Tuy nhiên, tác động của thời tiết cực đoan và xu hướng bảo hộ gia tăng đang tạo sức ép lớn, đặc biệt đối với các hộ sản xuất nhỏ lẻ.
Từ thực tiễn đó, ông đề xuất chiến lược phát triển ngành cà phê Việt Nam đến năm 2050 theo hướng bền vững, với mục tiêu giữ vững vị trí xuất khẩu hàng đầu và nâng kim ngạch lên trên 10 tỉ USD thông qua chế biến sâu. Trọng tâm là nâng cao năng suất trên diện tích đất không đổi, cải thiện chất lượng và gia tăng giá trị.
Đồng thời, Nhà nước cần hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua các rào cản quốc tế; doanh nghiệp đẩy mạnh chế biến sâu, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, giảm phụ thuộc vào EU và tăng cường giao dịch qua các sàn hàng hóa, thương mại điện tử.
Theo ông Phan Nguyễn Hoàng Tân, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng, sau sáp nhập địa giới hành chính, ngành cà phê Lâm Đồng có quy mô diện tích lớn nhất cả nước và đang được định hướng trở thành trung tâm sản xuất, chế biến, xuất khẩu cà phê hàng đầu Việt Nam.
Niên vụ 2025 - 2026, dự kiến toàn tỉnh có trên 328.000ha cà phê, sản lượng dự kiến vượt 1 triệu tấn. Sản xuất từng bước chuyển theo hướng bền vững với hơn 22.700ha ứng dụng công nghệ cao, trên 117.000ha được chứng nhận các tiêu chuẩn VietGAP và quốc tế; nhiều chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ đã hình thành, thu hút hàng chục nghìn hộ nông dân tham gia. Năm 2024, Lâm Đồng xuất khẩu khoảng 158.000 tấn cà phê, đạt gần 479 triệu USD.
Tuy nhiên, ngành cà phê địa phương đang đối mặt với ba thách thức lớn: tác động của biến đổi khí hậu và chi phí đầu vào tăng cao; hạn chế nội tại khi xuất khẩu vẫn chủ yếu là cà phê nhân thô, liên kết chuỗi còn lỏng lẻo; cùng với áp lực từ các rào cản thị trường, đặc biệt là Quy định chống mất rừng của EU (EUDR).

Trước thực tế đó, ông Phan Nguyễn Hoàng Tân cho rằng Lâm Đồng cần chuyển từ tư duy “sản xuất nông nghiệp” sang “kinh tế nông nghiệp”, tập trung tái canh vườn già cỗi, đẩy mạnh canh tác xanh, tưới tiết kiệm và chuyển đổi số; đồng thời tăng cường liên kết chuỗi, thu hút đầu tư chế biến sâu, phát huy thương hiệu “Cà phê Lâm Đồng” và xây dựng dữ liệu vùng trồng minh bạch nhằm đáp ứng các yêu cầu xuất khẩu trong giai đoạn tới.
Công nghệ và giống quý: Lối đi cho cà phê đặc sản Việt
Chia sẻ về sự kết hợp giữa việc nâng tầm giống nòi và ứng dụng khoa học kỹ thuật, kỷ lục gia thế giới, TS Phạm S cho biết hành trình phục tráng giống cà phê Bourbon Cầu Đất là một quá trình bền bỉ kéo dài hai thập kỷ, kết hợp giữa tâm huyết cá nhân và nền tảng khoa học.
Giống Bourbon - được mệnh danh là “nữ hoàng cà phê”, có lịch sử hơn 300 năm, từng được người Pháp đưa vào Cầu Đất từ năm 1927 nhưng bị mai một do chiến tranh và năng suất thấp.
Từ năm 2005, ông bắt đầu phục tráng giống từ 8 cây mẹ già cỗi, từng bước mở rộng diện tích lên 25ha vào năm 2024 và dự kiến đạt 50ha vào cuối năm 2025, đồng thời nhân rộng ra Măng Đen, Tu Mơ Rông và Quảng Ngãi.
Trên cơ sở dữ liệu khoa học, quá trình phục tráng đã khắc phục được những hạn chế lớn của Bourbon cổ điển, giúp cây thích nghi tốt hơn với biến đổi khí hậu, kháng bệnh rỉ sắt, đồng thời nâng cao năng suất mà vẫn giữ trọn hương vị đặc trưng. Hiện nay, Bourbon Cầu Đất được nhiều tập đoàn cà phê quốc tế quan tâm để phối trộn và đã xuất hiện trên thị trường với các sản phẩm thương mại.
Theo TS Phạm S, để giống Bourbon phát triển bền vững và vươn ra thế giới, cần kiểm soát nghiêm khâu giống, áp dụng canh tác xanh, tổ chức sản xuất theo vùng tập trung, gắn với chế biến ướt (để giữ trọn hương vị đặc trưng) và các tiêu chuẩn quốc tế, nhằm tạo dựng thương hiệu cà phê đặc sản có giá trị cao cho Việt Nam.

Song hành với câu chuyện về giống, vấn đề cấp bách về biến đổi khí hậu cũng được TS Phan Việt Hà - Viện trưởng Viện Khoa học Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên phân thích thấu đáo. Ông Hà nhấn mạnh vai trò của khoa học trong việc đồng hành cùng người nông dân, đưa ra các giải pháp thích ứng và đổi mới để vượt qua những "cơn bão" thách thức từ thiên nhiên.
Để hiện thực hóa khát vọng gia tăng giá trị cà phê, vai trò của công nghệ chế biến sâu được xem là "chiếc chìa khóa vàng". PGS.TS Lại Quốc Đạt - Trưởng phòng Đối ngoại, Trường Đại học Bách khoa (ĐHQG TP.HCM), khẳng định công nghệ chính là yếu tố then chốt đưa cà phê Việt vươn xa và bền vững hơn trên thị trường quốc tế.
Chiến lược cà phê Việt Nam: Bài toán giá trị gia tăng và công bằng chuỗi cung ứng
Ở góc độ chiến lược, bà Lê Hoàng Diệp Thảo, nhà sáng lập kiêm CEO TNI King Coffee đã đặt vấn đề phát triển ngành cà phê Việt Nam trong bối cảnh chuỗi giá trị cà phê toàn cầu đang đối mặt với nhiều thách thức mang tính hệ thống. Theo bà, cà phê là một trong những chuỗi cung ứng nông sản lớn nhất thế giới, song giá trị lại phân bổ không đồng đều giữa các khâu.

Bà cho rằng Việt Nam dù là quốc gia sản xuất cà phê lớn thứ hai toàn cầu, đóng góp khoảng 20% sản lượng Robusta thế giới, nhưng vẫn chủ yếu tham gia ở khâu xuất khẩu nguyên liệu thô. Người trồng cà phê hiện chỉ nhận được khoảng 10 - 20% giá bán lẻ, trong khi phần lớn giá trị gia tăng nằm ở các khâu chế biến, thương mại và xây dựng thương hiệu.
Từ thực tế đó, bà Lê Hoàng Diệp Thảo đề xuất khung chiến lược phát triển ngành cà phê giai đoạn 2025 - 2050 dựa trên ba trụ cột: bền vững, công nghệ và công bằng.
Trong đó, bền vững được xác định là nền tảng của toàn bộ chuỗi giá trị, hướng tới giảm phát thải carbon và trung lập carbon vào năm 2050, thông qua mở rộng các mô hình sản xuất cà phê bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu.
Ở trụ cột công nghệ, các giải pháp như trí tuệ nhân tạo và blockchain được nhấn mạnh nhằm tăng cường minh bạch chuỗi cung ứng, truy xuất nguồn gốc và nâng cao giá trị gia tăng cho hạt cà phê.
Bên cạnh đó, công bằng trong chuỗi giá trị được xem là điều kiện để ngành phát triển bền vững, thông qua cải thiện thu nhập cho người trồng cà phê và mở rộng các cơ chế hỗ trợ tài chính, thương mại công bằng.

Đối với Việt Nam, “Chiến lược Cà phê Việt Nam 2050” được định hình theo hướng gắn với xu thế toàn cầu, đồng thời khai thác lợi thế của quốc gia sản xuất Robusta lớn. Đây là kế hoạch mang tầm vóc quốc gia với sự đồng hành của Nhà nước và doanh nghiệp, tập trung vào chuyển đổi số, nâng tỉ trọng chế biến sâu, xây dựng thương hiệu quốc gia và giảm dần xuất khẩu thô, hướng tới vai trò trung tâm R&D cà phê của khu vực.
Trong tham luận về triển vọng ngành cà phê Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (VICOFA) Nguyễn Nam Hải cho rằng biến đổi khí hậu, xung đột địa chính trị và các quy định mới, đặc biệt EUDR, đang tạo sức ép lớn, buộc ngành phải minh bạch vùng trồng và truy xuất nguồn gốc.
Dù xuất khẩu đạt kết quả tích cực, cơ cấu sản phẩm vẫn là nghịch lý khi cà phê nhân thô chiếm tới 91%, còn chế biến sâu và thương hiệu chưa tương xứng; thị trường nội địa chưa được khai thác hiệu quả.
Về dài hạn, ông Hải cho rằng ngành cà phê Việt Nam cần chuyển hướng sang phát triển bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu, với trọng tâm ổn định diện tích, tái canh bằng giống chịu hạn và giảm phát thải. Song song đó, số hóa chuỗi giá trị và tăng tỷ trọng chế biến sâu được xem là điều kiện then chốt để gia tăng giá trị.
Bên cạnh việc duy trì thị phần tại châu Âu, ngành cà phê Việt Nam cần mở rộng sang châu Á, Trung Đông, đồng thời phát triển thị trường nội địa gắn với du lịch, văn hóa và trải nghiệm cà phê. Chỉ khi tháo gỡ được các nút thắt về khí hậu, tiêu chuẩn và cơ cấu chế biến, cà phê Việt Nam mới có thể nâng tầm vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu.


RSS