Văn hóa, nguồn tài nguyên để phát triển du lịch bền vững
VHO - Việt Nam là một quốc gia đa tộc người với thành phần 54 tộc người cùng sinh sống trên mọi vùng miền của đất nước. Mỗi tộc người đều có nền văn hóa riêng nhưng cùng hợp lại để làm thành một nền văn hóa chung. Đó chính là văn hóa Việt Nam.

Nguồn tài nguyên bền vững cho du lịch
Sau gần 40 năm thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, kinh tế đất nước đã phát triển toàn diện về mọi mặt. Nhận thức về văn hóa của người dân có nhiều thay đổi. Văn hóa không còn đơn thuần là hoạt động xây dựng phong trào quần chúng thực hiện đời sống văn hóa lành mạnh ở các khu phố, các thôn xóm.
Ngày nay, văn hóa được đánh giá là một nguồn tài nguyên bền vững trong du lịch. Nói văn hóa là nguồn tài nguyên bền vững vì bản chất của văn hóa là biến đổi để thích ứng với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Trong môi trường sống ngày nay, con người đã không những biến đổi văn hóa mà còn sáng tạo để làm phong phú thêm tài nguyên văn hóa của họ. Một trong những cách năng động và hiệu quả để phát huy giá trị văn hóa là xây dựng nó thành sản phẩm du lịch đặc thù. Bởi văn hóa và du lịch có mối quan hệ hỗ tương cho nhau.
Cụ thể như du lịch góp phần bảo tồn di sản văn hóa, quảng bá và thúc đẩy giao lưu văn hóa. Khai thác du lịch từ tài nguyên văn hóa sẽ mang lại lợi nhuận kinh tế cho các địa phương, từ đó cũng làm gia tăng nguồn vốn đầu tư cho văn hóa.
Bên cạnh việc sử dụng nguồn lợi từ du lịch để tái tạo văn hóa, phát triển du lịch từ nguồn tài nguyên văn hóa sẽ xuất hiện nhiều cơ hội nâng cao khả năng hợp tác công tư trong công tác bảo tồn di sản, trùng tu tôn tạo di tích và phát triển công nghiệp sáng tạo.
Phát huy văn hóa để phát triển du lịch cũng sẽ làm thay đổi nhận thức của người dân tại các địa phương. Khi người dân nhận thấy văn hóa tạo ra lợi nhuận kinh tế mà họ là đối tượng thụ hưởng thì trách nhiệm bảo vệ di sản văn hóa của họ sẽ được nâng cao đáng kể.
Người dân sẽ cảm thấy tự hào với nền văn hóa của chính họ. Từ đó, họ sẽ hợp tác tích cực với chính quyền địa phương trong phát triển du lịch.
Phát huy nguồn tài nguyên văn hóa hiện hữu
Hiện nay, TP.HCM và các địa phương ở Nam Bộ đang có xu hướng phát huy nguồn tài văn hóa hiện hữu để phát triển du lịch. Điều này xuất phát từ việc họ đánh giá được văn hóa là một nguồn tài nguyên bền vững vì nó luôn được bổ sung và tái tạo không ngừng bởi các chủ thể.
Ngược lại, tài nguyên thiên nhiên sẽ luôn giới hạn về trữ lượng cho nên việc khai thác sẽ dẫn đến tình trạng cạn kiệt trong tương lai. Du lịch văn hóa ở Nam Bộ ngày càng được quan tâm vì nó tạo ra những trải nghiệm độc đáo đối với du khách.
Trong đó, cảnh quan sông nước, văn hóa tộc người cùng với sản phẩm OCOP của địa phương là những đặc trưng đang được khai thác trong phát triển du lịch hiện nay. Đồng thời, phát triển du lịch sẽ tạo tiền đề quan trọng cho việc đánh thức nguồn tài nguyên quý giá từng “là tiềm năng” trong một thời gian khá dài.
Chúng là hệ thống di tích, làng nghề truyền thống, ẩm thực, nghệ thuật sân khấu, tri thức bản địa và các lễ hội đặc sắc ở các địa phương. Đây cũng chính là nguồn tài nguyên văn hóa vô cùng quan trọng đã được các cộng đồng địa phương ra sức bảo tồn và trao truyền thì nay đến thời điểm chúng cần được phát huy giá trị.
Nói đến tài nguyên văn hóa ở Nam Bộ thì không thể không nhắc đến lễ hội. Hiện nay lễ hội là một sự kiện hội tụ văn hóa và kinh tế quan trọng tại các địa phương.
Khi xưa, lễ hội mang lại những giá trị lớn lao về đời sống tinh thần cho người dân với chức năng tâm lý như thỏa mãn đời sống tâm linh của cá nhân và đoàn kết cộng đồng để duy trì các cấu trúc truyền thống trong xã hội. Các địa phương ở Nam Bộ luôn nhận diện được lợi thế của họ về lễ hội, đồng thời tận dụng lễ hội để quảng bá du lịch địa phương.
Từ đó, họ đã phát triển lễ hội thành sự kiện văn hóa và du lịch theo chu kỳ hàng năm. Trong giai đoạn diễn ra lễ hội, không khó khi nhận ra hàng loạt các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và chính sách của địa phương được triển khai.
Cụ thể như việc quảng bá di sản văn hóa, di sản thiên nhiên, giới thiệu thành tựu kinh tế, môi trường kinh doanh và kêu gọi xúc tiến đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác tại địa phương, trong đó ưu tiên cho đầu tư du lịch.
Vấn đề này có thể nhận ra trong các lễ hội lớn như lễ hội Cúng trăng (Ok Om Bok) ở tỉnh Trà Vinh, Lễ hội đua ghe Ngo ở tỉnh Sóc Trăng, lễ hội Bà Chúa Xứ, lễ hội đua bò ở tỉnh An Giang, lễ hội Gò Tháp ở tỉnh Đồng Tháp….
Bên cạnh đó, các Festival du lịch bắt đầu hình thành trong thời gian gần đây có nội dung hướng đến quảng bá du lịch tại các địa phương. Cụ thể như ở TP.HCM có Festival sông nước, Festival áo dài, Đồng Tháp có Festival hoa ở Sa Đéc, Bến Tre có Festival dừa… Các sự kiện này có sự đầu tư lớn của chính quyền các địa phương nên hiệu quả là vô cùng tích cực cho phát triển du lịch tại các địa phương.
Quá trình khai thác du lịch cũng đã góp phần phát triển văn hóa theo một diện mạo mới. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa có nhiều chuyển biến tích cực, đồng thời ý thức bảo vệ di sản văn hóa của cộng đồng ngày càng được nâng cao.
Đầu tư cho văn hóa được xem là hiệu quả hơn trước đây vì những lợi ích về kinh tế và những giá trị mà văn hóa mang lại cho các cộng đồng địa phương đang là hiện thực. Tuy nhiên, khai thác nguồn tài nguyên văn hóa để phát triển du lịch luôn đòi hỏi tính năng động của nhà đầu tư, sự sáng tạo không ngừng của các chủ thể văn hóa mà đại diện là những nhà sản xuất và những người thực hành văn hóa.
Trong tương lai, với chính sách phát triển du lịch hợp lý, chính sách kêu gọi đầu tư hợp tác công tư thành công thì tài nguyên văn hóa sẽ được phát huy theo diện mạo mới. Đó cũng chính là cơ sở để nguồn tài nguyên văn hóa được khai thác đúng giá trị của nó hướng đến mục tiêu phát triển du lịch bền vững.
Phát triển du lịch phải song hành với phát triển công nghiệp sáng tạo
Sản phẩm văn hóa phải đáp ứng được nhu cầu giải trí và thụ hưởng của du khách. Để làm được điều này, mỗi tỉnh - thành ở Nam Bộ cần có sự sáng tạo văn hóa theo những sắc thái riêng của mình.
Điểm nhấn của du lịch hiện nay là lễ hội và các Festival du lịch được tổ chức theo một quy trình của từng địa phương nhưng cần tránh sự trùng lặp về nội dung. Cụ thể như hiện nay phần nhiều các lễ hội ở Nam Bộ đều tổ chức sự kiện thả đèn hoa đăng xuống sông hồ vào ban đêm để thể hiện cho đặc trưng của văn hóa sông nước.
Như vậy, việc đầu tư cho sự kiện hoa đăng vừa tốn kém nhưng hiệu quả mang lại không cao vì nó không thể hiện cho nội dung và đặc trưng riêng của từng lễ hội.
Hay như các tỉnh miền Tây Nam Bộ chú trọng vào việc phát huy văn hóa Khmer Nam Bộ trong phát triển du lịch. Đây là việc cần thiết nhưng phải tạo ra nét đặc sắc riêng của người Khmer ở mỗi tỉnh, đặc biệt không nên lấy nguyên bản của các mẫu hình văn hóa từ nước bạn đưa vào lễ hội ở Nam Bộ như biểu tượng văn hóa, nội dung diễn xuất.
Do đó, để phát triển du lịch bền vững thì việc tận dụng nguồn tài nguyên văn hóa hiện hữu là chưa đủ. Thực tiễn đòi hỏi phát triển du lịch phải song hành cùng với phát triển công nghiệp sáng tạo, thúc đẩy sáng tác các nội dung văn hóa dựa trên nền tảng của văn hóa truyền thống. Từ kết quả mối quan hệ liên kết này mới có thể tạo ra các sản phẩm văn hóa đặc sắc và hấp dẫn du khách.
Việc tận dụng lợi thế của lễ hội để phát triển du lịch tại TP.HCM và các địa phương ở Nam Bộ đã thể hiện cho việc sử dụng nguồn tài nguyên văn hóa một cách hợp lý.
Tuy nhiên, nó cần kết nối với các nguồn tài nguyên khác trong lĩnh vực văn hóa như cảnh quan thiên nhiên, di sản làng nghề, hệ thống di tích, ẩm thực và sản phẩm OCOP đặc thù của mỗi địa phương. Việc vận dụng tài nguyên văn hóa để phát triển du lịch trong thời gian qua đã mang đến những hiệu quả tích cực về mặt kinh tế tại các địa phương.