Văn hóa – Lĩnh vực đào tạo chuyên sâu và đặc thù
VHO - Đào tạo văn hóa cần được bảo đảm tính đặc thù, chuyên sâu để nuôi dưỡng bản sắc, phát triển công nghiệp văn hóa và sức mạnh mềm quốc gia.

Trong tiến trình sắp xếp, đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập, Bộ VHTTDL đã đặt ra yêu cầu bảo đảm tính đặc thù cho một số lĩnh vực trọng yếu. Đây là bước đi nhằm tinh gọn hệ thống, nâng cao hiệu quả quản lý, song cũng đặt ra thách thức: làm thế nào để những ngành đặc thù không bị giản lược, không bị hòa lẫn vào các khối ngành khác.
Văn hóa được xác định là một trong những lĩnh vực cần được bảo đảm tính độc lập và chuyên sâu, bởi gắn liền với hệ giá trị tinh thần, bản sắc dân tộc và sức mạnh mềm của quốc gia. Trong hệ thống đào tạo hiện nay, Trường ĐH Văn hóa TP.HCM là một trong những cơ sở đảm nhận trực tiếp sứ mệnh đó.

Văn hóa: Phạm trù phổ quát nhưng cần đào tạo chuyên sâu
Ở nhiều quốc gia, đào tạo văn hóa đã được nhìn nhận như một lĩnh vực chuyên biệt trong hệ thống giáo dục đại học. Từ châu Âu đến châu Á, các trường đại học văn hóa, viện bảo tàng học, thư viện học, di sản học hay quản lý nghệ thuật được duy trì với cơ chế và chính sách riêng.
Bởi lẽ, văn hóa không chỉ là đối tượng nghiên cứu khoa học thuần túy, mà còn là nền tảng để duy trì căn tính dân tộc, tạo lập bản sắc trong quá trình hội nhập quốc tế và phát triển công nghiệp văn hóa. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng này, khi yêu cầu về nguồn nhân lực văn hóa ngày càng lớn và đòi hỏi phải có cơ sở đào tạo chuyên sâu, đủ tầm để đáp ứng.
Trong bối cảnh đó, việc khẳng định vai trò của các cơ sở đào tạo văn hóa ở Việt Nam trở nên cấp thiết. Hơn nửa thế kỷ qua, hệ thống các trường trực thuộc Bộ VHTTDL đã hình thành lực lượng nhân lực chuyên sâu, phục vụ cho công tác bảo tồn di sản, phát triển nghệ thuật, quản lý văn hóa và du lịch.

Trường ĐH Văn hóa TP.HCM là một trong hai cơ sở đào tạo đại học trọng điểm trong lĩnh vực này, bên cạnh Trường ĐH Văn hóa Hà Nội. Đây không chỉ là nơi cung cấp nhân lực chuyên môn cho các địa phương phía Nam, mà còn là trung tâm nghiên cứu, tham mưu chính sách và lan tỏa giá trị văn hóa trong xã hội.
Chính từ thực tiễn này, những phân tích về tính đặc thù của văn hóa với tư cách một lĩnh vực đào tạo chuyên sâu đã được đặt ra như một cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng.
Theo TS Trịnh Đăng Khoa, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH Văn hóa TP.HCM: Tính đặc thù của văn hóa thể hiện trước hết ở phạm vi rộng lớn và bản chất phức hợp của nó.
Văn hóa bao trùm toàn bộ đời sống tinh thần và vật chất của con người, từ hệ giá trị, tín ngưỡng, phong tục, tập quán cho đến tri thức, nghệ thuật và lối sống. Nó vừa mang tính phổ quát nhân loại, vừa gắn liền với bản sắc của từng cộng đồng và dân tộc.
Chính vì vậy, văn hóa là lĩnh vực khó có thể giản lược, đòi hỏi cách tiếp cận liên ngành nhưng vẫn phải có phương pháp luận chuyên biệt, nhấn mạnh đến sự nhạy cảm giá trị và tính lịch sử – xã hội của hiện tượng văn hóa.
“Từ chính trị, kinh tế, khoa học cho đến nghệ thuật, văn hóa đều hiện diện, định hình cách ứng xử, hệ giá trị và bản sắc cộng đồng. Vì vậy, đào tạo văn hóa vừa mang tính liên ngành, vừa cần có phương pháp luận riêng để phân tích, bảo tồn và phát triển”, TS Khoa nhấn mạnh.

Theo ông Khoa, nhiều ngành học trong lĩnh vực văn hóa đã chứng minh sự độc lập và đặc thù: bảo tàng học, di sản học, văn hóa dân tộc thiểu số, quản lý văn hóa, truyền thông văn hóa, thông tin - thư viện, du lịch…
Đây là những lĩnh vực đòi hỏi chuyên môn sâu, không thể thay thế bằng một vài học phần trong chương trình các trường khác. “Khác với nghệ thuật thiên về sáng tạo thẩm mỹ, các ngành văn hóa nhấn mạnh vào nghiên cứu, quản lý, chính sách và khai thác giá trị di sản. Hai lĩnh vực bổ sung cho nhau nhưng có định hướng khác biệt”, ông phân tích.
Điều kiện cần và đủ trong đào tạo văn hóa
Trong bức tranh chung về giáo dục đại học, nhiều ngành được đánh giá dựa trên sản phẩm vật chất hay lợi nhuận trực tiếp. Nhưng với văn hóa, giá trị tạo ra mang tính tinh thần và lâu dài.
TS Trịnh Đăng Khoa phân tích, so với các ngành nghề nghệ thuật như âm nhạc, sân khấu, múa, mỹ thuật hay điện ảnh, các ngành nghề văn hóa có đặc thù khác biệt. Nếu nghệ thuật thiên về sáng tạo hình tượng, biểu đạt cảm xúc và mang lại giá trị thẩm mỹ trực tiếp, thì văn hóa lại thiên về bảo tồn, quản lý và phát huy những giá trị tinh thần trong chiều dài lịch sử.
Nghệ thuật tạo nên các tác phẩm cụ thể để công chúng thưởng thức, còn văn hóa kiến tạo nền tảng, chính sách và môi trường để nghệ thuật tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, hai lĩnh vực này có mối quan hệ bổ sung: văn hóa nuôi dưỡng, định hướng cho nghệ thuật; nghệ thuật làm phong phú và sống động thêm cho văn hóa.

So với các ngành nghề đào tạo mang tính giá trị vật chất như kỹ thuật, kinh tế, công nghệ hay y dược, các ngành nghề văn hóa mang tính đặc thù ở chỗ chúng hướng nhiều hơn đến giá trị tinh thần.
Nếu các ngành nghề thiên về vật chất tập trung tạo ra sản phẩm hữu hình, mang lại lợi ích kinh tế trực tiếp và giải quyết nhu cầu sinh tồn của con người, thì ngành nghề văn hóa tập trung bồi dưỡng đời sống tinh thần, hình thành nhân cách, xây dựng hệ giá trị và nuôi dưỡng bản sắc dân tộc.
“Văn hóa nuôi dưỡng bản sắc, củng cố niềm tin, gắn kết cộng đồng. Đây là những giá trị không thể đo đếm bằng con số lợi nhuận, nhưng lại có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển bền vững của đất nước”, TS Khoa nhấn mạnh.
Điều đó lý giải vì sao nhiều quốc gia đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu và đào tạo văn hóa. Ở Việt Nam, yêu cầu đào tạo nhân lực văn hóa ngày càng rõ rệt khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển công nghiệp văn hóa, hội nhập quốc tế, đồng thời vẫn phải giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị và chỉ đạo của Bộ VHTTDL đều nhấn mạnh yêu cầu tinh gọn, hiệu quả hệ thống đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, theo TS Trịnh Đăng Khoa, để đánh giá một cơ sở đào tạo không thể chỉ dừng lại ở quy mô, cơ sở vật chất hay số lượng sinh viên.
“Điều kiện cần là đáp ứng các chuẩn chung của giáo dục đại học. Nhưng điều kiện đủ, mang tính quyết định, chính là sứ mệnh: đào tạo nhân lực cho lĩnh vực đặc thù, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, tham mưu chính sách cho ngành. Đây là chức năng không thể thay thế”, ông nhấn mạnh.

Trường ĐH Văn hóa TP.HCM trong nhiều năm qua đã khẳng định vị trí này. Ngoài đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ ở nhiều ngành, trường còn tham gia nghiên cứu khoa học, đóng góp tư vấn cho các chính sách văn hóa ở địa phương và trung ương.
Các thế hệ sinh viên tốt nghiệp hiện đang làm việc tại bảo tàng, thư viện, trung tâm văn hóa, cơ quan quản lý và truyền thông, góp phần trực tiếp vào việc vận hành đời sống văn hóa.
Để minh họa, TS Khoa dẫn chứng ở ngành bảo tàng học. Đây là lĩnh vực không nhiều trường đại học có thể đào tạo chuyên sâu, trong khi thực tiễn cả nước có hàng trăm bảo tàng và di tích cần đội ngũ cán bộ chuyên môn.
Tương tự, ngành quản lý văn hóa đào tạo cán bộ cho các địa phương, nơi hệ thống trung tâm văn hóa – thể thao, nhà văn hóa cộng đồng giữ vai trò nền tảng.
Ở lĩnh vực truyền thông văn hóa, nhu cầu nhân lực càng rõ trong bối cảnh chuyển đổi số, khi các sản phẩm văn hóa cần được quảng bá, lan tỏa hiệu quả. Sinh viên ngành này không chỉ học lý thuyết mà còn được tiếp cận thực tiễn qua hợp tác với doanh nghiệp truyền thông, cơ quan báo chí.
“Nếu thiếu những ngành đào tạo như vậy, nguồn nhân lực văn hóa sẽ bị hẫng hụt, không đáp ứng được yêu cầu phát triển”, TS Khoa nói.
“Sức mạnh mềm” của quốc gia
Mặc dù khẳng định vai trò đặc thù, TS Trịnh Đăng Khoa cũng thẳng thắn nhìn nhận những thách thức, đó là nguồn lực đầu tư cho cơ sở đào tạo văn hóa còn hạn chế; sức ép cạnh tranh nhân lực với các ngành “thời thượng” như công nghệ, kinh tế; và yêu cầu đổi mới chương trình để theo kịp xu hướng.


“Thách thức lớn nhất là làm sao vừa giữ vững tính bản sắc, vừa đáp ứng nhu cầu nhân lực mới của xã hội, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghiệp văn hóa, kinh tế sáng tạo”, ông cho biết.
Để đáp ứng yêu cầu mới, Trường ĐH Văn hóa TP.HCM đã và đang triển khai các hướng đi: đổi mới chương trình đào tạo, tăng cường ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy và nghiên cứu; mở rộng hợp tác quốc tế; đồng thời gắn kết chặt chẽ với thực tiễn bảo tồn di sản, phát triển công nghiệp văn hóa.
TS Khoa cho rằng văn hóa cần được nhìn nhận như một lĩnh vực chiến lược trong phát triển quốc gia. “Văn hóa không chỉ là đối tượng nghiên cứu học thuật mà còn là sức mạnh mềm, là trụ cột bảo đảm phát triển bền vững. Chính vì thế, đào tạo văn hóa phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm, cần có đầu tư trọng điểm và chính sách phù hợp”, ông khẳng định.

Từ góc nhìn khoa học lẫn thực tiễn đào tạo, có thể thấy văn hóa không phải là lĩnh vực “phụ trợ” mà là nền tảng định hình căn tính và sức mạnh mềm của quốc gia.
Trong hệ thống các cơ sở đào tạo, Trường ĐH Văn hóa TP.HCM đảm nhận vai trò trung tâm đối với khu vực phía Nam và cả nước. Việc bảo đảm tính đặc thù cho nhà trường không chỉ là giữ một cơ sở đào tạo, mà là giữ một nền tảng nhân lực cho ngành văn hóa trong nhiều thập niên tới.