Phòng, chống bệnh bạch hầu như thế nào?
VHO - Bệnh bạch hầu gây ra các biểu hiện chủ yếu ở đường hô hấp như bạch hầu mũi, họng, thanh quản, khí phế quản… Trong đó, có khoảng 70% người mắc bạch hầu họng. Các thể ít gặp hơn là bạch hầu da, bạch hầu mắt.
Đối tượng nào dễ bị biến chứng khi mắc bệnh bạch hầu?
Sở Y tế tỉnh Nghệ An và tỉnh Bắc Giang đang khẩn trương thực hiện các biện pháp khẩn cấp phòng, chống dịch bạch hầu sau khi ghi nhận một nữ bệnh nhân tử vong tại Nghệ An vào ngày 5.7.
Qua điều tra truy vết, Sở Y tế Nghệ An ghi nhận hơn 119 người tiếp xúc với bệnh nhân tử vong; trong đó có 2 người di chuyển về Bắc Giang. Trong 2 người này có 1 người có kết quả dương tính với bạch hầu, Sở Y tế Bắc Giang đã tiến hành truy vết được 15 người tiếp xúc và 8 người có kết quả âm tính (7 người chờ kết quả).
Từ tháng 8.2023, bệnh bạch hầu diễn biến phức tạp tại các tỉnh phía Bắc, với 20 ca nhiễm, 3 ca tử vong (tính đến cuối năm ngoái). Năm 2020, dịch bạch hầu bùng phát tại các tỉnh Đăk Lăk, Kon Tum, Bình Phước… với 5 ca tử vong, 200 ca mắc. Những năm gần đây, một số tỉnh, thành ở Việt Nam xuất hiện rải rác các ca bạch hầu, đặc biệt người chưa được tiêm nhắc hoặc không rõ tiền sử tiêm chủng.
BS.CKI Bạch Thị Chính – Giám đốc Y khoa, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC cho biết bạch hầu là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra. Bệnh thuộc danh mục bệnh truyền nhiễm nhóm B theo Luật phòng chống bệnh truyền nhiễm, có khả năng lây truyền nhanh và gây tử vong cao, buộc phải cách ly, nghiêm cấm hành vi che giấu, không khai báo.
Bệnh gây ra các biểu hiện chủ yếu ở đường hô hấp như bạch hầu mũi, họng, thanh quản, khí phế quản… Trong đó, có khoảng 70% người mắc bạch hầu họng. Các thể ít gặp hơn là bạch hầu da, bạch hầu mắt.
Với thể bạch hầu họng, ở giai đoạn đầu, bệnh nhân có dấu hiệu sốt nhẹ, ho, khàn tiếng, mệt, chán ăn, họng đỏ. Sau 2 – 3 ngày, mặt sau hoặc hai bên thành họng xuất hiện giả mạc có màu trắng ngà, xám hoặc đen. Giả mạc dai, dính, dễ chảy máu, có thể phình to gây tắc đường thở dẫn đến suy hô hấp, tử vong cho người bệnh.
Vi khuẩn bạch hầu cũng có thể xâm nhập vào máu gây ra các biến chứng nghiêm trọng khác như viêm cơ tim, tổn thương hệ thần kinh, đột ngột trụy tim mạch dẫn đến tử vong. Ngoài ra, bạch hầu cũng có thể dẫn đến thoái hóa thận, hoại tử ống thận, chảy máu lớp tủy và vỏ thượng thận; liệt do tổn thương hệ thần kinh vận động.
Theo bác sĩ Chính, tim là bộ phận dễ bị biến chứng nghiêm trọng nhất. Khoảng 30% bệnh nhân bạch hầu thể nặng có biến chứng viêm cơ tim, loạn nhịp tim, suy tim và tử vong. Tiếp theo là các các biến chứng thần kinh chiếm khoảng 5% trong tổng số ca bệnh nặng.
Bệnh có tỉ lệ tử vong khoảng 5 – 10%, thậm chí có thể lên đến 20% ở trẻ dưới 5 tuổi và người lớn trên 40 tuổi. Bác sĩ Chính cho biết thêm, nhóm người có biến chứng thận và tim mạch, người có sức khỏe yếu, bị suy giảm miễn dịch hoặc bệnh nhân đang đặt phương tiện hỗ trợ trong cơ thể, ví dụ thay van tim nhân tạo hoặc đặt shunt ở não thất, đặt catheter ở tĩnh mạch… có nguy cơ tử vong cao hơn.
Đẩy mạnh công tác tiêm chủng vắcxin
Ngay sau khi ghi nhận bệnh nhân tử vong, Bộ Y tế đã có công văn yêu cầu các địa phương chủ động phòng, chống dịch bệnh bạch hầu, hạn chế tối đa số ca mắc và tử vong. Tiếp tục chỉ đạo các đơn vị đẩy mạnh công tác tiêm chủng mở rộng. Tổ chức tiêm bù, tiêm vét cho các trường hợp chưa được tiêm đầy đủ các mũi vắcxin có thành phần bạch hầu. Đảm bảo đầy đủ thuốc, vắcxin, sinh phẩm, vật tư, hóa chất, trang thiết bị y tế đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh và phòng, chống dịch.
Các chuyên gia cho biết, bạch hầu có đường lây trực tiếp và gián tiếp. Người lành bị lây bệnh qua đường hô hấp trực tiếp khi tiếp xúc với dịch tiết mũi họng của người bệnh hoặc người mang vi khuẩn nhưng không biểu hiện triệu chứng. Bệnh cũng lây khi tiếp xúc với vật dụng, đồ chơi dính dịch tiết chứa vi khuẩn sau đó đưa tay lên mũi, miệng.
Ở Việt Nam, thời kỳ chưa thực hiện tiêm vắcxin, bệnh bạch hầu thường xảy ra và gây dịch ở hầu hết các tỉnh, đặc biệt ở các địa phương có mật độ dân cư cao. Bệnh xuất hiện nhiều vào các tháng 8, 9, 10 trong năm. Sau khi có vắcxin, tỉ lệ mắc bệnh giảm xuống dưới 0,01/100.000 dân.
Vắcxin là biện pháp nhanh chóng, tiết kiệm và an toàn để phòng bệnh bạch hầu. PGS.TS Trần Đắc Phu, nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế cho biết, từ khi vắcxin ngừa bạch hầu – ho gà – uốn ván được đưa vào chương trình Tiêm chủng mở rộng năm 1981, số ca bạch hầu tại nước ta đã giảm mạnh. Trong nhiều năm trở lại đây, bệnh quay trở lại với các ca bệnh rải rác ở các tỉnh miền Trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi, các tỉnh Tây Nguyên, gần đây là các tỉnh miền núi phía Bắc. Qua điều tra dịch tễ, đây đều là các vùng có tỷ lệ tiêm chủng thấp.
Để phòng bệnh bạch hầu lây lan trong cộng đồng, bác sĩ Chính khuyến cáo cần tiêm chủng đầy đủ vắcxin và tiêm nhắc lại theo thời gian khuyến cáo là cách phòng bệnh bạch hầu hiệu quả nhất, tỉ lệ bảo vệ trên 97%. Cơ thể chỉ cần 2 – 3 tuần sau khi tiêm đủ liều để sản sinh miễn dịch với bệnh.
Hiện tại, đang mùa hè, trẻ em được nghỉ hè và di chuyển nhiều nơi, ba mẹ nên dẫn trẻ đi tiêm nhắc phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván ngay để bảo vệ trẻ dài lâu trước những căn bệnh nguy hiểm. Cụ thể, sau khi hoàn tất lịch tiêm chủng vắcxin 5 trong 1 hoặc 6 trong 1 trong 2 năm đầu đời (vào lúc 2, 3, 4 và 18 tháng), trẻ cần tiêm nhắc một mũi vắcxin có thành phần bạch hầu vào lúc 4 – 6 tuổi và 9 – 15 tuổi. Người lớn cần tiêm nhắc vắc xin có thành phần bạch hầu 10 năm/lần.
Đặc biệt, các đối tượng phụ nữ mang thai, người từ 50 tuổi trở lên, người lớn có bệnh mạn tính ở phổi, tim mạch, thận… là các đối tượng có nguy cơ tử vong cao hơn khi mắc bạch hầu, cần rà soát lịch tiêm để bổ sung kịp thời. Với thai phụ, vắcxin được tiêm trong 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kỳ còn giúp truyền kháng thể bảo vệ bé trong những tháng đầu đời trước khi đến tuổi tiêm chủng.
Ngoài ra, bác sĩ Bạch Thị Chính lưu ý người dân nên khử khuẩn vệ sinh môi trường sống, rửa tay với xà phòng thường xuyên. Nếu địa phương phát hiện người mắc, cần thông báo ngay cho cơ quan y tế gần nhất để được cách ly và điều trị kịp thời. Người ở trong vùng dịch có biểu hiện ho, sốt, khó thở…, không tự ý điều trị mà nên đến trạm y tế để được thăm khám, chuyển tuyến kịp thời.
Hiện nay trên thị trường có đầy đủ các loại vắcxin phòng bệnh bạch hầu: 6 trong 1 Hexaxim/Infanrix Hexa phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt, viêm gan B và Hib; 5 trong 1 Pentaxim phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt, Hib; Tetraxim phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt; Boostrix/Adacel bạch hầu, ho gà, uốn ván; Td phòng bạch hầu hấp phụ, uốn ván.