Điệu Tơm - bản giao hưởng của núi rừng

NGUYỄN LINH

VHO - Ở Mường Lát, Mường Chanh, nơi những dãy núi nối nhau dựng đứng như bức tường thành, bản làng ẩn hiện trong sương sớm, đồng bào vùng cao vẫn gìn giữ những làn điệu dân ca, dân vũ và tiếng nhạc tre nứa độc đáo.

Điệu Tơm - bản giao hưởng của núi rừng - ảnh 1
Vũ điệu Tơm gắn với nhịp mùa và cuộc sống bản làng

 Hát Tơm, múa chọc lỗ tra hạt, kèn môi, sáo Pí Tơm… đã trở thành hồn cốt văn hóa, gắn bó với từng bước chân, hơi thở của đồng bào biên giới xứ Thanh. Và giữa những đổi thay của cuộc sống mới, kho tàng văn hóa ấy vẫn bền bỉ tồn tại, như tiếng vọng ngàn đời từ núi rừng.

Điệu Tơm ngân vang từ nương rẫy đến bản làng

Buổi chiều cuối hạ, nắng đã tắt sau dãy Pha Luông, bản Đoàn Kết (xã Mường Lát) chìm trong sắc vàng mờ ảo. Từ phía hiên một ngôi nhà sàn, giọng hát Tơm của già L. vang lên, mộc mạc mà ngân nga. Giọng hát ấy như kéo ta về quá khứ xa xăm, khi đồng bào Khơ Mú còn du canh du cư, sống dựa vào nương rẫy, tiếng ca trở thành “người bạn” chia sẻ niềm vui, nỗi buồn.

Ngồi trên chiếc ghế mây cũ, già L. chậm rãi kể: “Ngày xưa, trai gái trong bản đi nương hay cất tiếng hát Tơm đối đáp. Bên này núi hát, bên kia đáp, cứ thế tiếng ca nối tiếng ca, vang vọng khắp rừng. Có khi hát để tỏ tình, có khi để bày tỏ nỗi niềm. Lời ca không cố định, ai nghĩ gì, cảm gì thì hát nấy, nhưng phải có vần, có điệu, có hình ảnh gợi nhớ đến núi rừng, nương rẫy”.

Người Khơ Mú không có chữ viết riêng, nhưng hát Tơm đã trở thành “kho lưu trữ” ký ức tập thể. Trong những câu hát, ta nghe thấy sự tích dựng bản lập mường, truyền thuyết quả bầu, truyện Họ Rích - chim én, Sự tích Ông Chương, Truyền thuyết chữ viết… Những mẩu truyện ấy được truyền từ đời này sang đời khác qua giọng hát, khắc vào tâm trí cộng đồng. Không chỉ có nội dung sâu sắc, hát Tơm còn độc đáo ở chỗ thường gắn liền với tiếng sáo Pí Tơm.

Cây sáo dọc bằng tre, dài chừng một gang tay, khi thổi tiếng vang lên trong trẻo, dìu dặt, hòa cùng giọng hát tạo nên âm thanh bay bổng, khiến người nghe như thấy núi rừng gần gũi hơn, thân quen hơn. Chị M., một phụ nữ Khơ Mú đang đan gùi tre, vừa thoăn thoắt làm vừa rủ rỉ kể: “Hát Tơm là hát theo cảm xúc. Có khi đang gieo hạt, nhìn thấy con chim bay ngang, thế là hát: Chim ơi bay về, mang mưa đến với bản làng… Người bên kia nương nghe được thì đáp lời: Mưa về nương tốt, lúa mọc đều cây… Cứ thế, chúng tôi hát với nhau, vui lắm”.

Trong những ngày hội bản, hát Tơm không thể thiếu. Tiếng ca nối liền các thế hệ, vừa là trò vui vừa là nghi thức cộng đồng. Người già hát để kể chuyện xưa, thanh niên hát để kết bạn, đôi lứa hát để tìm hiểu nhau. Có những đêm hội, tiếng hát Tơm say sưa kéo dài sang tận canh ba chưa tắt...

Khi văn hóa hóa thân trong lao động

Nếu tiếng hát Tơm là lời tâm sự, thì vũ điệu dân gian của đồng bào Khơ Mú chính là sự tái hiện bằng hình thể của đời sống lao động và tín ngưỡng. Những điệu múa như cầu mưa, chọc lỗ tra hạt, cá lượn, dựng nhà… không chỉ để “xem”, mà để “sống cùng”, bởi cả cộng đồng đều tham gia.

Già L. nhớ lại: “Ngày trước, lễ cầu mưa quan trọng lắm. Mỗi khi nắng hạn kéo dài, cả bản tụ lại, người đánh trống, người gõ chiêng, người múa với thuồng luồng làm từ thân chuối, cau… Khi ấy, ai cũng tin rằng càng múa, càng gõ to, thần sấm, thần sét sẽ nổi giận mà ban mưa. Và lạ thay, nhiều khi sau lễ, mưa thực sự về. Chúng tôi tin đó là sự chứng giám của thần linh”.

Điệu múa chọc lỗ tra hạt lại gắn liền với chu kỳ sản xuất nông nghiệp. Nam thanh niên cầm gậy chọc lỗ, đi giật lùi, nữ cầm nắm hạt đi phía trước, vừa tra hạt vừa lấp đất. Họ nhảy nhịp nhàng theo vòng tròn, mô phỏng từng công đoạn gieo trồng. Không khí ấy khiến người xem như được sống trong không gian lao động tập thể đầy hứng khởi. Múa đuổi chim thì sôi động, mạnh mẽ. Một trai bản hào hứng kể: “Khi lúa chín, chim nhiều lắm. Tổ tiên nghĩ ra điệu múa này vừa xua chim, vừa tạo không khí vui vẻ. Cả nam nữ đều múa, tay gõ ống nứa, chân nhảy nhịp mạnh. Khi hô hây... hây... thì cả bản như bừng lên sức sống”.

Còn điệu múa dựng nhà thì phản ánh rõ nét tinh thần cộng đồng. Khi một gia đình làm nhà mới, đó là niềm vui của cả bản. Trong điệu múa, chàng trai mô phỏng hoạt động chặt gỗ, dựng cột, cô gái múa uyển chuyển mang gùi, dọn sàn. Những nhịp điệu nhanh, mạnh, dứt khoát kết hợp với động tác mềm mại, duyên dáng, hòa quyện thành bức tranh sinh động về sức lao động và niềm vui đoàn kết.

Đặc biệt, trong một dịp phóng viên có mặt tại lễ hội cơm mới ở bản Lách, cảnh tượng khiến ai cũng xúc động: Dưới ánh lửa bập bùng, cả bản quây quần bên nhau, tiếng chiêng, tiếng trống hòa cùng nhịp điệu múa dựng nhà. Du khách miền xuôi lần đầu chứng kiến đã thốt lên: Đây không chỉ là múa, là hát, mà là linh hồn của cả cộng đồng. Mỗi động tác, mỗi tiếng hô đều chất chứa niềm tin, niềm vui sống”.

Hiện nay, người Khơ Mú ở Mường Lát chỉ còn khoảng hơn 1.000 nhân khẩu, tập trung ở khu phố Đoàn Kết và bản Lách. Đời sống còn nhiều khó khăn, nhưng kho tàng văn hóa phi vật thể của họ lại vô cùng phong phú.

Nghệ nhân L. trăn trở: “Nhiều bài Tơm cổ, nhiều điệu múa xưa giờ chỉ còn người già nhớ. Thanh niên bận rộn làm ăn, lại nghe nhiều nhạc mới. Tôi sợ mai này, khi những người già đi hết, những khúc hát, điệu múa sẽ biến mất”.

Lo lắng ấy không phải không có cơ sở. Bởi trong vòng xoáy hội nhập, nhiều giá trị truyền thống cứ dần mai một. Chính quyền địa phương đã đưa dân ca, dân vũ Khơ Mú vào chương trình văn nghệ, lễ hội; song để bảo tồn lâu dài, cần sự đầu tư bài bản như mở lớp truyền dạy, hỗ trợ nghệ nhân, gắn văn hóa với phát triển du lịch cộng đồng.

Ông Trịnh Thế Bắc, Chủ tịch UBND xã Mường Lát, khẳng định: “Chúng tôi xác định, di sản văn hóa Khơ Mú là một phần quan trọng trong kho tàng văn hóa các dân tộc xứ Thanh. Tới đây, xã sẽ phối hợp với cơ quan chức năng sưu tầm, phục dựng, đồng thời xây dựng các sản phẩm du lịch dựa trên hát Tơm, múa dân gian. Nếu làm tốt, đây sẽ là hướng phát triển vừa gìn giữ văn hóa, vừa nâng cao đời sống bà con”.

Trong tương lai, khi du khách đến Mường Lát, Mường Chanh họ sẽ không chỉ được chiêm ngưỡng cảnh sắc biên giới hùng vĩ, mà còn được nghe tiếng hát Tơm vang vọng, được hòa mình trong điệu múa dựng nhà, được trải nghiệm nhạc cụ tre nứa. Đó sẽ là những “đặc sản tinh thần” giúp vùng đất này trở thành điểm đến văn hóa hấp dẫn.