Những “người thầy không bục giảng” giữ lửa văn hoá Thái giữa đại ngàn

TRẦN HOÀNG

VHO - Trong hành trình gìn giữ giá trị văn hoá các dân tộc thiểu số, có những “người thầy” không đứng lớp theo nghĩa truyền thống. Họ lặng lẽ mở lớp tại chính căn nhà sàn của mình, truyền chữ, truyền tiếng, truyền cả niềm tự hào dân tộc cho thế hệ sau.

Những “người thầy không bục giảng” giữ lửa văn hoá Thái giữa đại ngàn - ảnh 1
Ông Cao Bằng Nghĩa kiên nhẫn truyền dạy kỹ thuật thổi khèn bè cho lớp trẻ – gìn giữ âm sắc đặc trưng của người Thái giữa nhịp sống hiện đại

Giữa đại ngàn xứ Thanh, những người như ông Cao Bằng Nghĩa (76 tuổi, xã Hồi Xuân) hay ông Hà Nam Ninh (xã Bá Thước) đang từng ngày thắp lại lửa văn hoá Thái bằng chính tâm huyết và lòng kiên trì của mình.

Những lớp học nhen lên từ căn nhà sàn

Ai từng ghé qua căn nhà sàn của ông Cao Bằng Nghĩa đều không khỏi ngạc nhiên: từng góc nhỏ được ông nâng niu như một bảo tàng thu nhỏ. Những bộ chiêng đồng, khèn bè, sáo Mông, khèn lá… được ông sưu tầm, bảo quản suốt mấy chục năm.

Nhưng đồ vật chỉ là một phần. Điều khiến người ta nể phục hơn chính là kiến thức đồ sộ về chữ viết, tiếng nói và phong tục của đồng bào Thái mà ông gìn giữ trong từng trang bản thảo, từng cuốn tài liệu hiếm hoi còn sót lại.

Sinh ra trong tiếng suối róc rách, lớn lên bên tiếng khèn bè của người cha, văn hoá Thái ngấm vào ông từ thuở bé. Cơ duyên đưa ông từ ngành giao thông thủy lợi sang công tác văn hóa đã mở ra một hành trình gắn bó trọn đời với di sản dân tộc mình.

Nhiều năm giữ vị trí Trưởng phòng Văn hoá, rồi Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy Quan Hóa, ông luôn đau đáu trước nguy cơ văn hoá bị mai một.

“Khi là người con dân tộc Thái, tìm hiểu văn hoá Thái cũng là tìm lại chính mình. Mất đi văn hóa là mất đi cả một dân tộc”, ông nói, đôi mắt chùng xuống.

Những “người thầy không bục giảng” giữ lửa văn hoá Thái giữa đại ngàn - ảnh 2
Ông Cao Bằng Nghĩa giới thiệu những cuốn sách cổ của người Thái

Dù tuổi cao sức yếu, ông Nghĩa vẫn âm thầm giữ “hồn cốt” của cộng đồng theo cách riêng: mở lớp dạy chữ Thái ngay tại nhà, truyền dạy khèn bè, khèn tang ma, sáo trúc cho trẻ nhỏ; tham mưu cho chính quyền mở lớp bồi dưỡng về văn hoá dân gian cho cán bộ cơ sở; thành lập Câu lạc bộ Khèn bè và Câu lạc bộ Văn hóa dân gian huyện Quan Hóa (cũ) để tạo nơi sinh hoạt cho những người chung niềm đam mê.

Những lớp chữ Thái đầu tiên ông mở cách đây hơn chục năm, chỉ vài người tìm đến, chủ yếu là người lớn tuổi muốn đọc lại sách cổ trong dòng họ. Dần dần, tiếng lành đồn xa. Cán bộ xã, đoàn viên thanh niên, giáo viên… tìm đến xin học.

Đến nay, ông đã dạy chữ Thái cổ cho hơn 220 người; truyền dạy khèn bè cho hàng chục học viên, khèn Mông cho 7 người, sáo trúc cho 20 thiếu nhi trong khu phố.

Không lớp học nào có phấn trắng. Không học phí. Chỉ có người thầy tóc bạc phơ, kiên nhẫn ngồi bên chõng tre, đọc từng con chữ cổ. Để người học hứng thú, ông lồng vào bài giảng những câu tục ngữ, trường ca, dân ca Thái để chữ không chỉ là chữ, mà là cả văn hoá sống động phía sau.

Chậm rãi nhưng chắc chắn, phong trào học chữ Thái ở Quan Hóa (cũ) nhờ ông mà bừng lên sức sống mới.

Những người thắp lửa bền bỉ giữa thời hiện đại

Không chỉ ở Quan Hóa (cũ), tại huyện Bá Thước (cũ), ông Hà Nam Ninh cũng dành gần nửa đời mình đi khắp bản làng để sưu tầm tài liệu chữ Thái cổ.

Những “người thầy không bục giảng” giữ lửa văn hoá Thái giữa đại ngàn - ảnh 3
Ông Hà Nam Ninh giới thiệu các cuốn sách cổ – hàng trăm tư liệu quý hiếm được ông sưu tầm, bảo quản cẩn thận, trở thành kho báu văn hóa không thư viện nào có

Sau khi nghỉ hưu, ông dành trọn tâm huyết vào việc biên soạn giáo án và mở các lớp học miễn phí cho người dân. Năm 2007, Sở Giáo dục và Đào tạo mời ông giảng dạy cho 13 giáo viên Trường Đại học Hồng Đức, đặt những viên gạch đầu tiên cho Đề án dạy tiếng Thái tại Thanh Hóa.

Năm 2014, ông tiếp tục được mời giảng dạy trong chương trình bồi dưỡng tiếng Thái cho cán bộ, công chức và giáo viên. Nhờ những lớp học đặc biệt này, nhiều cán bộ, giáo viên trong tỉnh được trang bị kiến thức vững vàng để đưa tiếng Thái vào giảng dạy chính khóa.

Không chỉ là người thầy tận tâm, ông còn sưu tầm và bảo quản hàng trăm cuốn sách cổ, trở thành nguồn tư liệu quý hiếm, độc đáo mà không một thư viện nào có. 

Đặc biệt, ông là tác giả, chủ biên của ba bộ tài liệu quan trọng: “Bộ chữ Thái cổ Thanh Hóa”, “Tài liệu dạy tiếng dân tộc Thái” (2008) và “Tài liệu đào tạo, bồi dưỡng tiếng Thái” (2014), những cẩm nang quý giá, ghi dấu tầm nhìn và tâm huyết của ông với văn hóa Thái.

Năm 2015, ông được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú, một sự ghi nhận xứng đáng cho hành trình bền bỉ và tận hiến suốt nhiều năm trời.

Cùng với hai ông, còn rất nhiều nghệ nhân, già làng, người uy tín miệt mài suốt ngày đêm trên mảnh đất miền núi Thanh Hoá. Họ không cần danh xưng “thầy giáo”, nhưng lại làm công việc của một người thầy thực thụ: dạy chữ, dạy tiếng, dạy cách yêu và tôn trọng cội nguồn.

Những “người thầy không bục giảng” giữ lửa văn hoá Thái giữa đại ngàn - ảnh 4

Những văn bản quý giá viết bằng chữ Thái cổ, tồn tại qua hàng trăm năm, được ông Hà Nam Ninh cẩn trọng sưu tầm và trao truyền cho lớp trẻ, giữ gìn hồn cốt dân tộc

Điều họ lo nhất không phải vật chất. Mà là sự phai nhạt văn hoá trong lớp trẻ. Ông Nghĩa thở dài: “Giờ người ta nói tiếng Thái lẫn tiếng Việt, kiểu nửa cơm nếp, nửa cơm tẻ. Chữ Thái ít người quan tâm, phong tục cũng thế. Văn hoá mà mất thì khó cứu lắm”.

Nỗi lo ấy không vô cớ. Bởi trong cuộc sống hiện đại, văn hoá truyền thống đôi khi bị xem nhẹ, thậm chí bị “thương mại hoá”. Những giá trị gốc từ tiếng nói, nếp nhà, lễ tục dễ dàng bị lẫn vào sự hối hả của đời sống mới.

Không ít cán bộ văn hoá cơ sở còn yếu kiến thức, thiếu đam mê. “Tôi nhìn mà thấy lo. Làm văn hoá mà không có tình yêu văn hoá thì khó mà giữ nổi”, ông buồn rầu. Nhưng rồi ông tự nhủ vẫn phải cố, vì phía sau ông còn nhiều học trò những người sẽ tiếp bước.

Có lẽ điều đẹp nhất ở những “người thầy miền núi” này nằm ở sự bền bỉ. Họ không có ngày 20.11 để được tôn vinh. Không có hoa, không có bài ca tri ân. Nhưng họ lại giữ vai trò không thể thay thế trong sự tiếp nối văn hoá của một cộng đồng.

Tấm lòng của họ đặt ra một gợi mở lớn cho ngành giáo dục: giữ gìn văn hoá dân tộc không chỉ là nhiệm vụ của trường học, mà cần sự chung tay của những người am hiểu văn hoá ngay trong cộng đồng.

Những lớp học chữ Thái từ căn nhà sàn, những câu khèn bè được truyền lại từ bàn tay run run của người già đó chính là “giờ học sống động” mà không giáo trình nào thay thế được.

Ngày Nhà giáo Việt Nam không chỉ là dịp tri ân những người đứng lớp, mà còn là dịp để tôn vinh những người thầy thầm lặng đang gìn giữ những giá trị vô hình nhưng vô giá đó là văn hoá, là di sản của cha ông.