Nhân văn trong từng trang viết

VH- Thời kỳ dùng văn chương để truyền bá đạo đức, để dạy dỗ ai một điều gì đó, kể cả là dạy dỗ lý tưởng đã qua rồi. Nó không thích hợp với thời đại dân chủ và bối cảnh thế giới phẳng như hiện nay. Hãy để cho văn chương nói lên đời sống thật của con người và người ta tự hiểu biết, tự tìm ra những lý giải cho bản thân họ.

Nhân văn trong từng trang viết - Anh 1

 Nhà văn Ma Văn Kháng ký tặng sách cho độc giả Ảnh: Thái Minh

 Người khởi động “mùa vàng” đổi mới.

“Mỗi cuốn sách hay đều là nơi lưu giữ bóng hình của cuộc sống đã qua không bao giờ trở lại”, nhà văn Ma Văn Kháng từng viết. Trong những năm tháng làm việc, Ma Văn Kháng đã may mắn có cơ hội được trải nghiệm cuộc sống ở cả thành thị và miền núi. Bởi vậy, những tác phẩm nổi bật nhất của nhà văn đều là xuất phát từ hai đề tài này. Thông qua những tác phẩm của mình, nhà văn đã ghi lại từng mảnh ghép nhỏ của cuộc sống, của thời đại mình từng đi qua. Như Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Hữu Thỉnh nhận định: “Đọc tác phẩm của ông ta thấy một vốn sống khổng lồ được chuyển hóa nhuần nhuyễn thành những câu từ hết sức gần gũi”.

Ma Văn Kháng là tác giả thuộc nửa sau của dòng văn học Việt Nam kinh điển giai đoạn hậu chiến và trước đổi mới, cùng thời với Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải… đều là những cái tên quen thuộc với độc giả Việt Nam, là lá cờ tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học. Đọc văn của Ma Văn Kháng hay rất nhiều tác giả kinh điển khác, ta không còn quẩn quanh trong nỗi buồn cá nhân. Thay vào đó, lại thấy mình giữa một lát cắt thời đại, với những nỗi niềm rộng lớn hơn nhưng không vì thế mà xa lạ. Những tác phẩm nổi bật về đề tài miền núi và cuộc sống thời đổi mới của nhà văn có thể kể đến như: Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh đời, Đám cưới không có giấy giá thú, Một mình một ngựa, Đồng bạc trắng hoa xòe…

Định vị tên tuổi của ông trong dòng chảy văn học Việt Nam cũng chính là cách soi chiếu để đánh giá giá trị của văn chương trong sự phản chiếu hiện thực đời sống xã hội. GS Phong Lê phân tích 3 giai đoạn quan trọng nhất làm nên gương mặt văn học thế kỷ XX. Một thế hệ với những cái tên như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Tô Hoài… phải chuẩn bị 30 năm (1900 - 1930) để có 15 năm mùa vàng của hiện đại hóa văn chương. Thế hệ thứ hai là giai đoạn kháng chiến, đồng hành từ Chế Lan Viên, Tố Hữu, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh… Và đến thế hệ thứ ba, Ma Văn Kháng như cánh chim đầu đàn của công cuộc văn chương góp sức dựng xây đất nước. “Giai đoạn 1986 tôi đánh giá có giá trị ngang với Cách mạng Tháng Tám với việc thiết lập bằng sự cởi trói, lấy dân làm gốc. Những tác phẩm Mưa mùa hạ, Đám cưới không có giấy giá thú… của anh đã tranh biện với xã hội một cách hăng hái. Để rồi sau đó kết thúc thời kỳ sôi động để đi vào dòng sông thời kỳ hội nhập hiện nay”.

Tránh “tính không tải” trong văn học

Với những tác phẩm đề cập sâu về đời sống xã hội, những câu chuyện xoay quanh sáng tác của nhà văn Ma Văn Kháng trong buổi giao lưu “Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương” mới đây đã đưa đến cái nhìn chân thực về đời sống văn chương. PGS.TS La Khắc Hòa dẫn chứng câu nói của một nhà sưu tập văn học dân gian Nga: Người làm văn xuôi dứt khoát phải dựa vào chuyện. Bám vào hiện thực xã hội, nhà văn sáng tác ít thường không có chuyện sinh sản hay còn gọi là câu chuyện tạm sinh, tức là “siêu chuyện”. Ma Văn Kháng từ năm 1982 đã “đẻ” ra được một siêu chuyện, luôn đặt nhân vật vào giữa lớp đời sống bề mặt gồm những kẻ sống hời hợt, đuổi theo danh vọng và một lớp tuy chìm dưới tầng sâu song vô cùng dữ dội. Hay cái tên mới trong giới văn chương như Sương Nguyệt Minh, toàn bộ sáng tác suy đến cùng cũng ở cùng một chìa khóa, ấy là nói về cái trớ trêu của cuộc đời. Như Mười ba bến nước, tác giả đẩy nhân vật đến sự lạc đường, lạc lối trong chiến tranh rồi đến khi ra khỏi chiến tranh thì lạc loài.

Song dù viết thế nào, viết nhiều hay viết ít thì suy đến cùng văn chương cũng cần đến với bạn đọc ở giá trị nhân văn đích thực. Muốn trang viết thấm đượm giá trị nhân sinh, nhà văn phải gắn bó với đời sống, với con người ở thời đại mình. Văn học ở trong bản chất sâu xa nhất sẽ cất lên tiếng nói khổ đau, nỗi day dứt về số phận nghèo khó, khổ sở… Theo GS.TS Trần Đăng Suyền, Đại học Sư phạm Hà Nội: “Người ta đến với văn học là để hiểu xã hội mình, hiểu thời đại mình đang sống, hiểu đất nước mình, con người mình. Chỉ có nghệ thuật không thôi người ta gọi là thứ văn chương lâm nguy. Nhà văn tìm tòi cái nọ, tìm tòi cái kia nhưng quan trọng là trong đó chứa đựng một tư tưởng, một nội dung sâu sắc hay không”.

Với nhà văn Ma Văn Kháng sống với nghiệp viết giống như khi đọc, cứ đọc một cách vô tư, không trông mong bất cứ vụ lợi nào, cái gì thấm vào mình đều ở thể vô ngôn và nó sẽ tỏa ra một cách tự nhiên nhất. “Nhiều người nói về sự tìm tòi đi tìm chất liệu, với tôi không hoàn toàn đúng như thế. Khi viết tôi cũng không có ý thức mình sẽ làm được những gì, đưa ra đời để làm gì cho thiên hạ, càng không có ý dạy dỗ ai”. Một khi đời sống đã tự nhiên gia nhập, bổn phận của nhà văn là dày công mài giũa, tìm ra được răng cưa, cái lẫy của nó, rồi tỉ mỉ chạm khắc, cuối cùng mới hoàn thiện thành cái của mình. Thời kỳ dùng văn chương để truyền bá đạo đức, để dạy dỗ ai một điều gì đó, kể cả là dạy dỗ lý tưởng đã qua rồi. Nó không thích hợp với thời đại dân chủ và bối cảnh thế giới phẳng như hiện nay. Hãy để cho văn chương nói lên đời sống thật của con người và người ta tự hiểu biết, tự tìm ra những lý giải cho bản thân họ.

Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Hữu Thỉnh cho rằng, chính cách ấy đã giúp cho người viết lưu lại dấu ấn. Cái bạn đọc chờ đợi nhất đối với một nhà văn là nhà văn đồng thời là một nhà tư tưởng, đồng thời phải là một nhà văn hóa, một nhà lao động xã hội. Nhưng các yếu tố ấy phải đi vào tác phẩm thật tự nhiên. “Không tải trong văn học là đọc tác phẩm không thấy đem đến một triết lý nhân sinh, một tư tưởng nào. Kể chuyện lan man trên trời dưới đất nhưng không có tư tưởng nhân sinh, không nâng tầm triết lý thì đó là xe không tải. Cao thấp của nhà văn hay không chính ở chỗ đó”. 

Thư Lê

 

Ý kiến bạn đọc