Nghề báo và duyên phận
VHO - Năm ngoái, tôi làm được một việc đã định từ lâu là hoàn thành cuốn hồi ký Phóng viên chiến trường. Lễ ra mắt sách có sự phối hợp của NXB Thông tấn và Công ty Alpha Books rất ấm cúng, nhiều bạn bè, đồng nghiệp các thế hệ đến động viên, chung vui. Qua hồi ký này, tôi muốn ghi lại những kỷ niệm nghề nghiệp trong cuộc đời một người làm báo, từ khi là một phóng viên còn rất trẻ cho đến cuối đời.

Và không chỉ là câu chuyện của tôi mà còn là của các đồng nghiệp, các thế hệ cán bộ, phóng viên Thông tấn xã Việt Nam trên các chiến trường, vào những thời điểm, địa bàn rất phức tạp, khó khăn. Tôi muốn lưu giữ lại hình ảnh của những đồng nghiệp thân thương, quý mến một thời của mình.
Cơ duyên theo nghề cầm bút
Một số phóng viên hỏi về cơ duyên đưa tôi theo nghề cầm bút ngay từ khi còn rất trẻ. Để trả lời cho ngọn ngành câu hỏi này cũng khá dài dòng.
Tôi sống ở thị xã Hải Dương từ nhỏ, năm 13 tuổi, khi chiến tranh phá hoại lan ra miền Bắc thì theo gia đình về sống ở vùng ngoại ô. Mẹ tôi trong những năm tháng ấy vẫn bám trụ làm việc ở nhà máy, không đi sơ tán. Bố mẹ tôi là những người hết lòng chăm lo cho việc học tập của các con. Tôi thích đọc sách. Ngoài tủ sách ở nhà, tôi mượn của bạn bè và lên đọc ở thư viện thị xã khi có điều kiện. Tôi thích những truyện thiếu nhi như Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Đội du kích thiếu niên Đình Bảng, Những vì sao đất nước, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Truyện cổ Andersen, Không gia đình… Sau này lớn hơn, tôi say mê các bộ tiểu thuyết như Những người khốn khổ, Chiến tranh và hòa bình, Sông Đông êm đềm…; các tập truyện ngắn của Pautopxki, Puskin... Tôi đọc cả những tập san Văn Sử Địa, Thư từ miền Nam gửi ra và nhiều cuốn khác. Cũng không có sự lựa chọn vì hoàn cảnh chiến tranh, sách vở cũng ít. Tôi đọc cả những tập thơ anh Trần Mai Hạnh chép tay sáng tác của các tác giả thời kỳ Thơ mới, những sáng tác đầu tay của anh khi học tại Khoa Văn, Đại học Tổng hợp.
Tôi đã sống qua những năm tháng hào hùng và bi tráng. Tôi đã chứng kiến khoảnh khắc lịch sử và cả những hy sinh, khổ đau, mất mát vô cùng lớn lao của con người. Nhiều đồng nghiệp của tôi đã ngã xuống trên chiến trường, với máy ảnh và vũ khí trong tay, những trang tin còn đang viết dở. Sự hy sinh đó là vô giá. Là những người may mắn trở về, sự sống trong mỗi chúng tôi luôn trĩu nặng sự sống của cả bao người không còn có mặt. Vì thế, sống sao cho xứng đáng, sống cho cả mong ước của những người không trở về, luôn là một câu hỏi lớn cho mỗi con người hôm nay.
(Trích hồi ký “Phóng viên chiến trường” của Nhà báo TRẦN MAI HƯỞNG)
Những năm tôi học cấp ba thì anh Trần Mai Hạnh đã về công tác tại Thông tấn xã Việt Nam, thường trú tại Phân xã Hải Phòng. Hải Phòng khi ấy bị đánh phá rất ác liệt, cả TP bị phong tỏa. Trong hoàn cảnh ấy, hoạt động của anh Trần Mai Hạnh và các phóng viên rất nguy hiểm. Tôi nhớ, mỗi lần máy bay ném bom phía Hải Phòng, mẹ tôi lại nhìn về hướng ấy, dù đêm hay ngày, vẻ mặt rất âu lo. Một vài lần, các anh ở Phân xã Hải Phòng như nhà báo Nguyễn Văn Trường, phóng viên ảnh Đặng Cảnh Khanh… trên đường về Hà Nội có ghé thăm gia đình tôi ở làng Sượt, ngoại ô thị xã Hải Dương. Tôi rất ấn tượng về vẻ phong trần lãng mạn của các phóng viên chiến tranh, dù mới chỉ là một cậu học sinh, chưa hiểu biết gì về báo chí và nơi anh trai mình làm việc.
Năm 1967, khi tôi học lớp 9 thì một sự kiện đặc biệt xảy đến. Anh Trần Mai Hạnh được cơ quan cử đi chiến trường, công tác trong tổ phóng viên tại mặt trận Quảng Đà. Anh lên đường rất gấp, chỉ về qua nhà vài hôm để chia tay bố mẹ và các em. Trong những bức thư ít ỏi sau đấy anh gửi về, tôi hiểu được công việc của các anh ở nơi chiến trường vô cùng khắc nghiệt. Hồi ấy, đã có vài lần tôi nghe được qua Đài Tiếng nói Việt Nam bài viết của anh, với danh xưng Trần Mai Hạnh, phóng viên Thông tấn xã tại mặt trận Quảng Đà.
Mùa hè năm 1968, tôi học hết lớp 10. Do chiến tranh đang diễn ra ác liệt, học sinh thi tốt nghiệp theo từng trường, không có kỳ thi đại học như các năm trước. Mọi công việc tuyển sinh đại học giao cho các Ban tuyển sinh ở từng tỉnh. Tôi nhận được giấy gọi đi học Đại học Thể dục Thể thao. Tôi rất bất ngờ vì hoàn toàn không có nguyện vọng theo học trường này. Như một cơ duyên, liền sau đấy, gia đình tôi nhận được một lá thư từ Hà Nội. Người viết thư là nhà báo Xuân Trình, làm việc ở Phòng Đào tạo, Thông tấn xã Việt Nam, một đồng nghiệp của anh Trần Mai Hạnh. Trong thư, nhà báo Xuân Trình sau khi thông báo tình hình của anh Trần Mai Hạnh ở chiến trường, có viết đại ý: Trước khi ra mặt trận, anh Hạnh có dặn lại khi tôi tốt nghiệp phổ thông, nếu có nguyện vọng học làm phóng viên, đề nghị cơ quan quan tâm. Sắp tới, Thông tấn xã có mở lớp phóng viên. Nếu tôi muốn, gia đình có thể gửi hồ sơ để cơ quan xét việc theo học.
Bố tôi để tùy tôi quyết định nên theo học ở đâu. Tôi đã suy nghĩ một ngày, rồi quyết định chuẩn bị hồ sơ gửi về Thông tấn xã Việt Nam, kèm theo lá đơn xin học. Mọi việc diễn ra rất nhanh. Ít ngày sau, tôi nhận thông báo được tuyển vào học lớp Phóng viên khóa 8. Người ký quyết định là nhà báo Đỗ Phượng, khi ấy là Phó Tổng biên tập. Ít ngày sau, tôi khoác ba lô về Hà Nội nhập học. Nghề làm báo trở thành số phận của tôi theo cách như vậy.

Những bài báo đầu tiên
Lớp phóng viên khóa 8 của Thông tấn xã Việt Nam khá đặc biệt, có đến gần 200 học viên, trong đó lớp phóng viên hơn 100 người, từ nhiều nguồn khác nhau. Có sinh viên đại học, cán bộ các ngành, các địa phương, thanh niên xung phong... Tôi là người trẻ nhất lớp, tròn 16 tuổi (trong học bạ ghi năm sinh 1951, nhưng vì gia đình cho tôi đi học sớm một năm nên khai tăng một tuổi). Chúng tôi học ở nơi sơ tán gần Trạm Trôi, Hoài Đức, Hà Tây cũ. Bữa ăn chủ yếu là rau xanh, thịt cá vô cùng ít ỏi. Cơm độn mì, bo bo, có bữa chỉ là hai miếng bột mì nắm lại để luộc, chúng tôi gọi là “nắp hầm”. Cái đói bám theo dai dẳng. Bữa nào trốn ra Cửa hàng mậu dịch ở Trạm Trôi ăn “mì không người lái” thì nơm nớp lo Ban phụ trách phê bình. Đấy là kỷ luật thời chiến để bảo vệ bí mật của nhà trường.
Dù thời gian học chỉ khoảng gần một năm rưỡi, kể cả đi thực tập, nhưng tôi nghĩ đó là chương trình tốt cho những người mới học nghề. Chúng tôi được dạy những vấn đề cơ bản của nghiệp vụ báo chí, nhiệm vụ của Thông tấn xã Việt Nam, cách viết tin, bài thông tấn, học chụp ảnh và in tráng phim, nghe nhiều chuyên đề về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc tế... Tôi nhớ khi kết thúc phần học về ảnh, đi thực tế, ba học viên mới được chụp chung một cuộn phim 36 kiểu, nghĩa là mỗi người chỉ được chụp 12 kiểu. Chúng tôi phải tính toán, cân nhắc rất nhiều mỗi lần bấm máy để bức ảnh được ưng ý nhất. Lần đầu tiên trong đời cầm máy ảnh, chụp những bức ảnh đầu tiên. Kỷ niệm ấy không bao giờ quên đối với tôi.
Trong thời gian theo học, tôi chỉ chăm chú tiếp thu bài giảng, không dám và cũng không thể viết gì. Tôi chưa có đủ vốn sống, hiểu biết và sự tự tin vào mình. Bài báo đầu tiên của tôi khi đi thực tập cuối khóa có tiêu đề Ngọn đèn, viết về một bà mẹ là cơ sở cách mạng trong thời kỳ chống Pháp, tại thôn Trinh Tiết, một làng nhỏ ven sông Đáy thơ mộng, bên cầu Tế Tiêu, huyện Mỹ Đức (nay thuộc Hà Nội). Bài báo đạt yêu cầu tốt nghiệp, nhưng tôi cũng không dám gửi đi đâu vì không đủ tự tin.
Những ngày ấy, anh Trần Mai Hạnh vẫn ở mặt trận Quảng Đà. Gia đình tôi còn may mắn là biết được thông tin của anh qua cơ quan. Phân xã Quảng Đà khi ấy trực thuộc Tổng xã ở Hà Nội, do nhà báo Đinh Trọng Quyền làm Phân xã trưởng. Ngoài anh Trần Mai Hạnh còn có các phóng viên tin Nguyễn Quốc Toản, phóng viên ảnh Lương Thế Trung, các kỹ thuật và điện báo viên Nguyễn Duy Mẫn, Phạm Văn Thạch... Mặt trận Quảng Đà sau Mậu Thân 1968 là địa bàn vô cùng ác liệt. Một số nhà văn, nhà báo như chị Dương Thị Xuân Quý, anh Nguyễn Trọng Định… đã hy sinh ở đây.
Cuối năm 1969, lớp phóng viên và kỹ thuật viên khóa 8 của Thông tấn xã Việt Nam kết thúc. Đầu năm 1970, tôi được phân công về Phân xã Hà Tây, khi ấy vừa được thành lập lại, do nữ nhà báo Huỳnh Thị Hường làm Phân xã trưởng.
Năm 1971, thời gian tôi đang trong những bước đầu của nghề báo thì anh Trần Mai Hạnh và các anh trong Phân xã Quảng Đà được cơ quan điều ra Hà Nội. Anh Đinh Trọng Quyền, Trưởng phân xã bị thương ở Hòn Tàu nhưng may mắn sống sót trong điều kiện chạy chữa hết sức khó khăn. Các anh đều rất đau yếu. Qua gặp gỡ, tôi hiểu thêm tính chất ác liệt của công việc phóng viên chiến trường và học hỏi thêm từ các anh nghề nghiệp và kinh nghiệm sống. Những bài viết và sáng tác ban đầu của tôi được anh Hạnh và bạn bè đồng nghiệp đọc, góp ý. Điều ấy rất quý báu đối với tôi, bởi vì, ngay đầu năm 1972 tôi đã lên đường vào mặt trận Quảng Trị, làm nhiệm vụ phóng viên tại một trong những nơi ác liệt nhất, “một mùa hè đỏ lửa” không thể nào quên.
Tháng 1.1972 tôi rời Hà Nội, trong ba lô ngoài quân trang, súng ngắn, máy ảnh, còn một chiếc gùi màu phòng không, chất vải chống thấm mà anh Hạnh dùng ở Quảng Đà đưa lại cho tôi với nhiều tin yêu và gửi gắm. Một điều rất may mắn là trong thời gian tôi làm phóng viên Quảng Trị từ 1972-1973, anh Hạnh về công tác tại Phòng tin miền Nam. Tất cả các tin bài từ chiến trường gửi ra đều được Phòng tin xử lý, phát cho các báo và đưa lên bản tin của Thông tấn xã. Hầu hết những bài tôi viết anh Hạnh điều trực tiếp biên tập. Ngoài ra, những sáng tác đầu tay của tôi như bài thơ Giếng nước dưới địa đạo, các truyện ngắn Mẹ Tư, Đôi mắt mặt trận… anh đều xem và gửi đăng trên báo Văn Nghệ và các báo khác, hoặc phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam. Điều ấy đã động viên tôi vượt qua nhiều khó khăn thách thức, cố gắng về mọi mặt để hoàn thành nhiệm vụ và rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp.

Sự may mắn kỳ lạ trong cuộc đời
Mùa xuân 1975 thật đặc biệt với chúng tôi. Sau mong đợt công tác tăng cường, từ Vĩnh Linh tôi ra Hà Nội, sau Tết Ất Mão, theo học Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Khi ấy, trận đánh ở Tây Nguyên với đỉnh cao là Chiến dịch Buôn Mê Thuột xảy ra. Tôi linh cảm thấy những biến đổi rất lớn lao đang đến, mặc dù thông tin cụ thể thì tôi không biết. Khoảng giữa tháng Ba, từ lớp học tôi về Ban Biên tập tin ảnh miền Bắc thì được nghe cơ quan đang chuẩn bị một đoàn cán bộ, phóng viên tăng cường cho mặt trận Trị Thiên. Tôi đã xin tham gia đoàn công tác này. Tôi tìm gặp bác Lê Châu, khi đó là Phó Trưởng Ban biên tập tin ảnh miền Bắc. Khi tôi đề đạt nguyện vọng, bác Lê Châu cười bảo: “Nhân sự chuẩn bị xong hết rồi. Cậu đang theo học ở trường nên cơ quan không tính đến. Thôi, để học xong đã!”. Lớp học còn cả tháng nữa mới kết thúc, mà thời gian đâu có chờ đợi ai. Thấy tôi cứ tần ngần, bác Lê Châu mách nước: “Bây giờ chỉ còn một cách, vì tớ cũng không có quyền. Cậu sang gặp ông Đỗ Phượng thử trình bày xem sao”.
Từ 18 Trần Hưng Đạo, tôi chạy sang số 5 Lý Thường Kiệt, leo lên tầng 3, phòng của Phó Tổng biên tập Đỗ Phượng, người phụ trách mảng trong nước hồi ấy. Tôi nhớ rất rõ gương mặt trầm ngâm của bác Đỗ Phượng qua làn khói thuốc. Sau một lúc suy nghĩ, bác nói: “Học chỉ là một lý do thôi. Cái chính là Trần Mai Hạnh đã ở trong đoàn cùng Tổng biên tập Đào Tùng vào B2 và cũng đang chuẩn bị lên đường gấp. Nhà cậu có hai anh em trai, đi cả sợ ông già các cậu kêu!”. Tôi trình bày rằng nếu là chuyện cả hai anh em cùng đi thì không có vấn đề gì. Bố tôi hiểu và luôn ủng hộ công việc của các con. (Mẹ tôi đã mất cuối năm 1973, nhưng tôi nghĩ nếu mẹ còn sống thì cũng như bố tôi, luôn tôn trọng các quyết định của các con). Nghe tôi trình bày xong, sau một lúc suy nghĩ, bác Đỗ Phượng gật đầu: “Thôi được, tôi đồng ý. Ngày mai cậu về nhận quyết định, lĩnh quân trang, báo cáo với nhà trường về việc điều động công tác để sau này về học tiếp”.
Mọi việc diễn ra rất nhanh gọn. Sau vài ngày, tôi đã cùng đoàn cán bộ, phóng viên tăng cường cho mặt trận Trị Thiên lên đường. Khi ấy, tôi không ngờ rằng mình được có mặt khi “Huế đổ cờ bay” và “Đà Nẵng ngày đầu giải phóng”, viết được những bài đầu tiên về các sự kiện này, và sau đó theo cánh quân phía Đông suốt dọc miền Trung và có mặt ở Dinh Độc Lập trưa ngày 30.4.1975. Tôi cũng không ngờ trên đường ra trận của mùa xuân lịch sử ấy, tôi gặp anh Trần Mai Hạnh ở Huế, rồi hai anh em theo hai ngả chiến trường lại cùng có mặt ở Dinh Độc Lập trong ngày toàn thắng. Đấy là một kỷ niệm đặc biệt, một sự may mắn đến kỳ lạ trong cuộc đời tôi.
Cho đến bây giờ, tôi vẫn nhớ như in những hình ảnh khi tổ phóng viên mũi nhọn của Thông tấn xã Việt Nam theo mũi đột kích của Quân đoàn 2 đánh thẳng vào trung tâm Sài Gòn. Chúng tôi qua cầu xa lộ lớn trên sông Đồng Nai từ sớm. Sài Gòn đang rút chạy. Từ trong thành phố, từng đoàn người bị dồn ép đang bung ra, đi ngược chiều về phía Biên Hòa bằng đủ loại phương tiện. Dòng người cuồn cuộn trên xa lộ dài cả chục cây số. Một cơn mưa lớn ập đến. Không mặc áo mưa, đồng bào vẫn đứng ở hai bên đường reo hò, vẫy chào quân giải phóng.

Xe chúng tôi lao về phía Dinh Độc Lập. Những chiếc xe tăng đi đầu đã đến trước. Cánh cửa sắt đã bị hất tung. Vừa vào trong Dinh, tôi và nhà nhiếp ảnh Vũ Tạo nhảy ra khỏi xe thì thấy một chiếc xe tăng trong đội hình thọc sâu tiến qua cổng chính của Dinh. Một hình ảnh rất đẹp: Nắng rực rỡ, xe tăng vừa vào ngang cổng, cánh cửa sắt đổ sập vẫn nằm trên mặt đất, lá cờ giải phóng trên tháp pháo tung bay. Tôi đưa máy ảnh lên ghi lại hình ảnh tuyệt vời về chiếc xe tăng mang số hiệu 846. Đây là chiếc xe tăng thứ tư trong đội hình, gồm trưởng xe là đại đội phó Nguyễn Quang Hòa, lái xe Trần Bình Yên, pháo thủ số 1 Nguyễn Văn Quý, pháo thủ số 2 Nguyễn Bá Tứ. Bức ảnh Xe tăng Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập 30.4.1975, sau đó được chuyển ra Hà Nội, Thông tấn xã Việt Nam phát đi, được sử dụng rộng rãi và trở thành biểu tượng quen thuộc của Đại thắng Mùa xuân.
Trưa và chiều 30.4.1975, Dinh Độc Lập thực sự là nơi hội quân của nhiều phóng viên Thông tấn xã Việt Nam - Thông tấn xã Giải phóng và các cơ quan báo chí khác trong một thời điểm lịch sử. Các anh Trần Mai Hạnh và Văn Bảo là những phóng viên viết, gửi được bài, ảnh đầu tiên qua đường truyền của Thông tấn xã Giải phóng từ Sài Gòn qua Tây Ninh ra Hà Nội. Ảnh của anh em trong tổ chúng tôi được anh Hứa Kiểm mang ra bằng máy bay. Nhiều bài viết, ảnh chụp của các anh chị khác cũng được đăng, phát kịp thời. Đây là những thông tin, hình ảnh vô cùng quý giá, tạo nên một bức tranh toàn cảnh về Sài Gòn và miền Nam Việt Nam trong thời khắc lịch sử.
Ngay từ những ngày ấy, bên cạnh những bài báo kịp thời, tôi biết anh Trần Mai Hạnh đã có ý định sưu tập tư liệu một cách bài bản, từ nhiều nguồn ở cả hai phía để sau này viết lại một cách kỹ lưỡng, tổng hợp, dựng nên một bức tranh toàn cảnh về Mùa xuân 75 lịch sử. Đấy chính là tác phẩm Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75, mà sau này, vì những lý do khác nhau, anh hoàn thành muộn hơn dự định. Tác phẩm đã có vị trí xứng đáng, được thừa nhận một cách rộng rãi ở trong và ngoài nước; được trao tặng Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Văn học ASEAN; dịch sang tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Lào và phát hành nhiều nơi trên thế giới…
Tôi hay được đồng nghiệp gọi là “người may mắn” vì có mặt ở nhiều chiến trường, chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng của dân tộc. Cuối năm 1978, tôi tham gia chiến dịch của quân tình nguyện Việt Nam giúp nhân dân Campuchia lật đổ chế độ Pôn Pốt, cùng các chiến sĩ Binh đoàn Cửu Long có mặt ở Phnom Penh đúng ngày 7.1.1979. Tôi cũng đã có mặt ở Cao Bằng, Hà Giang trong chiến tranh bảo vệ biên giới những năm 80, và được đến nhiều nơi trên đất nước.
Sau này, đầu những năm 90, anh Trần Mai Hạnh chuyển sang làm việc ở Hội Nhà báo và Đài Tiếng nói Việt Nam. Tôi vẫn ở lại Thông tấn xã Việt Nam. Hai anh em mỗi người một công việc, một con đường với những thăng trầm của số phận. Nhưng trong hoàn cảnh nào, chúng tôi cũng vẫn chia sẻ, động viên nhau vượt qua mọi khó khăn thử thách, cố gắng làm bổn phận không dễ dàng của người cầm bút với tất cả những duyên phận mà nghề nghiệp dành cho mình.