Kỷ niệm 20 năm Ngày Di sản văn hóa Việt Nam:
Làm gì để “biến di sản thành tài sản”?
VHO - Trong dòng chảy lịch sử của dân tộc, di sản văn hóa luôn hiện diện như những trầm tích quý giá, kết tinh trí tuệ, bản lĩnh và tâm hồn Việt Nam qua hàng nghìn năm. Mỗi di tích, lễ hội, nghề truyền thống… đều là những mảnh ghép không thể thay thế của bản sắc văn hóa dân tộc.
Nhưng di sản không chỉ để chiêm ngưỡng và tự hào; di sản phải được bảo vệ, gìn giữ và phát huy, để trở thành nguồn lực cho phát triển bền vững hôm nay và mai sau.
Tròn 20 năm Ngày Di sản văn hóa Việt Nam (23.11.2005 - 23.11.2025), câu chuyện bảo tồn và phát huy giá trị di sản càng trở nên cấp thiết trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của đất nước. Hai thập kỷ qua chứng kiến những chuyển biến sâu sắc, từ nhận thức, chính sách đến mô hình quản lý và sự tham gia của cộng đồng. Di sản không chỉ còn là ký ức, là cội nguồn, mà đã trở thành nguồn lực, động lực, sức mạnh mềm làm nên vị thế văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế.

Nhân dịp này, Văn Hóa đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Đỗ Văn Trụ, Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa Việt Nam về những thành tựu nổi bật cũng như không ít thách thức đang đặt ra và những giải pháp trọng tâm để thực hiện hiệu quả định hướng “biến di sản thành tài sản”.
Thưa PGS.TS Đỗ Văn Trụ, ông đánh giá như thế nào về sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với lĩnh vực di sản văn hóa trong suốt thời gian qua?
- PGS.TS Đỗ Văn Trụ: Cách đây 80 năm, ngày 23.11.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL “Về bảo tồn cổ tích trong toàn cõi Việt Nam”. Đây là Sắc lệnh đầu tiên của chính thể mới về bảo tồn di sản văn hóa dân tộc, đặt nền móng, kim chỉ nam, sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho sự nghiệp bảo vệ di sản văn hóa nước nhà.
Xuất phát từ ý nghĩa lịch sử của Sắc lệnh số 65/SL, ngày 24.2.2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 36/2005/QĐ-TTg, lấy ngày 23.11 hằng năm là Ngày Di sản văn hóa Việt Nam. 80 năm qua, cùng với tiến trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc, sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ngày càng được coi trọng. Hệ thống pháp luật về di sản văn hóa không ngừng được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước. Đến nay, cả nước đã xếp hạng được hơn 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố; 3.621 di tích quốc gia, 130 di tích quốc gia đặc biệt, trên tổng số hơn 40.000 di tích; khoảng 7.000 di sản văn hóa phi vật thể đã được kiểm kê, trong đó có 534 di sản đã được ghi vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Nhiều di sản văn hóa của Việt Nam đã được UNESCO ghi danh. Điều đó chứng tỏ công tác bảo vệ di sản ngày càng hiệu quả, uy tín của di sản văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định. Từ một vài bảo tàng được xây dựng dưới thời Pháp thuộc, hiện nay, hệ thống bảo tàng Việt Nam đã có 127 bảo tàng công lập, 70 bảo tàng ngoài công lập, bảo quản trên bốn triệu hiện vật. Cả nước có hơn 300 hiện vật, nhóm hiện vật đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia. Chúng ta có quyền tự hào về kho tàng di sản văn hóa phong phú, đa dạng, giàu bản sắc dân tộc và những thành tựu đã đạt được trong sự nghiệp bảo vệ di sản văn hóa. Đó là nguồn động viên to lớn, giúp chúng ta càng thêm yêu và trách nhiệm với di sản văn hóa dân tộc.
Từ đổi mới 1986 đến nay, di sản văn hóa Việt Nam đã được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Di sản văn hóa không chỉ là cội nguồn, là sức mạnh mềm của nền văn hóa dân tộc mà đã thực sự trở thành một nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế đất nước. Đó là điều không thể phủ nhận.
Bên cạnh đó, hệ thống luật pháp về di sản cũng ngày càng hoàn thiện. Chúng ta có Luật Di sản văn hóa năm 2001, sửa đổi năm 2009, và đặc biệt Luật sửa đổi, bổ sung năm 2024, một bước tiến rất lớn với nhiều điểm mới, tiếp cận xu thế quốc tế nhưng vẫn phù hợp tình hình Việt Nam. Các nghị định, thông tư sau luật đã cụ thể hóa nhiều nội dung quan trọng, tạo thuận lợi cho công tác bảo tồn di sản.
Song hành với đó, ý thức cộng đồng trong bảo vệ di sản ngày càng được nâng cao. Từ khi có Ngày Di sản văn hóa Việt Nam (23.11.2005), di sản ngày càng có sức lan tỏa mạnh mẽ. Việc bảo vệ di sản không chỉ là trách nhiệm Nhà nước mà là của toàn xã hội, của các cộng đồng, những chủ thể nắm giữ và gìn giữ di sản qua nhiều thế hệ.

Trong bối cảnh hiện nay, theo ông, đâu là những thách thức lớn nhất trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản?
- Mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển là vấn đề muôn đời, quốc gia nào cũng có, chỉ khác về mức độ. Ở Việt Nam, quá trình đô thị hóa, phát triển kinh tế thị trường khiến nảy sinh nhiều bất cập. Hành lang pháp lý về di sản văn hóa đã quy định rõ, tầm nhìn xa nhưng để pháp luật đi vào cuộc sống thực tiễn còn gặp nhiều hạn chế. Ví dụ như quy định, chính sách bảo vệ bảo vật quốc gia. Khi được Thủ tướng công nhận, pháp luật yêu cầu bảo vệ nghiêm ngặt, nhưng ở nhiều địa phương chưa thực hiện tốt, dẫn đến bảo vật hư hỏng, nguy cơ mất trộm.
Bên cạnh đó, số lượng di tích quá lớn, hơn 40.000 di tích, trong đó gần 4.000 di tích cấp quốc gia, nhưng kinh phí đầu tư còn hạn chế. Làm được chỗ này thì hỏng chỗ khác. Vì vậy, không thể chỉ trông vào ngân sách Nhà nước, phải có chính sách xã hội hóa mạnh mẽ. Hà Nội là một ví dụ tốt cho mô hình Nhà nước và nhân dân cùng làm, Nhà nước hỗ trợ 30-40%, còn lại xã hội hóa. Vai trò xã hội hóa trong bảo tồn di tích cần được phát huy và nhân rộng.
Đặc biệt, Luật Di sản văn hóa 2024 đã đề cao yếu tố cộng đồng và trách nhiệm xã hội. Di sản muốn phát huy hiệu quả phải dựa vào chính cộng đồng. Thực tiễn ở nhiều quốc gia lớn như Mỹ, Anh, Đức… cho thấy, dù đất nước giàu có nhưng công tác bảo tồn di sản của họ cũng làm theo hướng xã hội hóa, dựa vào cộng đồng.

Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo “biến di sản thành tài sản”. Ông nhìn nhận thế nào về việc khai thác tiềm năng di sản hiện nay?
- “Biến di sản thành tài sản” là một chủ trương rất đúng đắn. Di sản không chỉ tiêu tiền, mà phải
từ di sản làm ra tiền, tạo ra lợi ích thiết thực cho cộng đồng, cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả của chúng ta hiện nay vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Nhiều di sản, đã được xếp hạng nhưng chưa chuyển hóa thành lợi ích kinh tế. Cần làm gì để biến di sản thành tài sản cần phải có sự chung tay của nhiều phía, cơ quan quản lý, nhà nghiên cứu, nghệ nhân, doanh nghiệp. Sự hợp tác này sẽ giải quyết được những khó khăn, hạn chế, tồn tại mà bấy lâu nay chúng ta gặp phải.
Một số nơi làm tốt có thể kể đến như di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hỏa Lò, Cố đô Huế, Hạ Long, Tràng An, Hội An… Ở những nơi này, người dân đã sống được bằng di sản, và khi người dân sống được bằng di sản thì họ sẽ quay trở lại bảo vệ di sản. Về luật pháp, không thể đòi hỏi sự hoàn thiện tuyệt đối, vì thực tiễn luôn vận động, phát sinh nhiều vấn đề mới. Luật phải có tính dự báo, luôn thay đổi để phù hợp yêu cầu phát triển và thông lệ quốc tế. Điều quan trọng là hiện thực hóa luật bằng chính sách cụ thể. Ví dụ như chế độ đãi ngộ nghệ nhân, chính sách bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, tu bổ di tích, bảo vật quốc gia…
Tôi lấy ví dụ vấn đề bảo vật quốc gia, khi được Thủ tướng Chính phủ công nhận, kèm theo đó là quy định bảo vệ nghiêm ngặt. Tuy nhiên, chính quyền một số địa phương vẫn lơi lỏng, chưa có những phương án bảo vệ đặc biệt được cấp thẩm quyền phê duyệt, dẫn đến nguy cơ bảo vật bị hư hại hoặc mất cắp. Vì thế, Luật đã có rồi, việc đưa Luật vào đời sống như thế nào thì chính quyền địa phương phải thực sự vào cuộc, không được lơi lỏng. Đồng thời đẩy mạnh công tác xã hội hóa. Nhà nước đóng vai trò chất xúc tác, kiến tạo, định hướng; phát triển di sản phải dựa vào sức dân và nguồn lực xã hội.
Ông có kỳ vọng gì về công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản trong thời gian tới?
- Nhiều quốc gia đã làm rất tốt việc biến di sản thành nguồn lực kinh tế, đặc biệt qua du lịch, dịch vụ văn hóa, giáo dục di sản như Hàn Quốc, Trung Quốc. Điều đáng chú ý là ở họ, nguồn thu từ du lịch di sản được quay lại đầu tư cho di sản, tạo vòng tuần hoàn bền vững. Chúng ta nói nhiều về phát triển du lịch từ di sản, nhưng nguồn thu đó đã quay lại bao nhiêu để đầu tư cho di sản? Đây là vấn đề cần nghiên cứu nghiêm túc.
Một lần nữa cần khẳng định, di sản là tài sản vô giá của dân tộc. Muốn di sản thực sự trở thành nguồn lực và động lực phát triển, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, tăng cường xã hội hóa, nâng cao ý thức cộng đồng và đặc biệt là hiện thực hóa chỉ đạo của Thủ tướng về “biến di sản thành tài sản”. Khi người dân sống được nhờ di sản, di sản sẽ được bảo vệ bền vững nhất.
Xin cảm ơn ông!

RSS