Bản hùng ca trên vùng cát trắng

VHO- Bình Dương, một xã nhỏ nằm ven biển huyện Thăng Bình (Quảng Nam) được bao quanh toàn cát và cát. Vậy nhưng vùng đất cát ấy lại được biết đến như một bản hùng ca xứ Quảng với ba lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng, trong đó hai lần là Anh hùng LLVTND (1969, 1972) và một lần là Anh hùng Lao động (1985).

Bản hùng ca trên vùng cát trắng - Anh 1

Nghĩa trang liệt sĩ xã Bình Dương, nơi yên nghỉ của hơn 1.200 liệt sĩ

Trong cuốn nhật ký ghi ngày 4.1.1969, Anh hùng LLVT, liệt sĩ, nhà văn, nhà báo Chu Cẩm Phong đã viết: “Bây chừ dân Bình Dương không biết làm chi ngoài làm cách mạng”.

Bản hùng ca trên vùng cát Bình Dương

Mảnh đất ấy là nơi mà nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng hoạt động, sáng tác như nhà văn, nhà báo liệt sĩ Chu Cẩm Phong, nhà thơ liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý, nhà văn Thái Bá Lợi, nhà văn Nguyên Ngọc... Nhiều tác phẩm đã ra đời từ cảm hứng thực tế của vùng đất cát anh hùng: Cát cháy, Mặt biển - Mặt trận, Gương mặt thách thức, Vườn cây ăn quả nhà mẹ Thám, “Gió lộng từ Cửa Đại…

Trong kháng chiến chống Pháp, xã Bình Dương vừa ở vị trí tiền tiêu ở phía Đông Thăng Bình, là vùng giáp ranh giữa vùng tự do với vùng địch tạm chiếm, vừa là bàn đạp để cán bộ và lực lượng vũ trang vào công tác ở vùng địch tạm chiếm. Là nơi đầu sóng ngọn gió, quân và dân kiên cường bám trụ, chiến đấu giữ vững vùng tự do. Có hơn 300 người dân xã gia nhập du kích, bộ đội, làm cán bộ trên các chiến trường Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Hạ Lào, trong đó có 100 người đã hy sinh. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, từ “Chiến tranh đặc biệt” đến “Chiến tranh cục bộ” rồi “Việt Nam hóa chiến tranh”, Bình Dương được mệnh danh là “vùng đất thép”. Đặc biệt, “đội quân tóc dài” đánh giặc bằng những câu hát, hò vè của các người mẹ, người chị vùng đất cát này và đã nhiều lần tổ chức đến khu vực quận lỵ Thăng Bình đấu tranh chính trị cũng như nhiều lần đấu tranh trực diện, nằm trước đầu xe tăng địch để phản đối cày ủi, tàn phá nhà cửa, ruộng vườn; mạnh dạn lên tiếng đòi quân địch rút quân, không ném bom, bắn phá, tàn sát nhân dân…

Qua hai cuộc kháng chiến, hơn 4.700 người ở xã Bình Dương đã ngã xuống, trong đó có 1.430 liệt sĩ, 400 Mẹ Việt Nam anh hùng, 5 Anh hùng LLVT, và còn hơn 300 thương, bệnh binh; hàng trăm người tù đày, trẻ em mồ côi, nhiều gia đình không còn người thân bởi các vụ thảm sát…

Chỉ cách đây hơn một tháng, người dân xã Bình Dương ngậm ngùi tiễn đưa cụ Phan Thanh Toán, nguyên Bí thư Huyện ủy Thăng Bình giai đoạn 1973-1975 về nơi an nghỉ cuối cùng. Những câu chuyện về cuộc đời sống, chiến đấu của cụ Toán vẫn còn mãi trong ký ức của đồng đội, người dân Thăng Bình.

Bản hùng ca trên vùng cát trắng - Anh 2

 Đoàn viên thanh niên xã Bình Dương dâng hương tại nghĩa trang liệt sĩ

Trong những câu chuyện ấy luôn xuất hiện cái tên căn cứ lõm Bàu Bính, được mệnh danh là căn cứ không rào chắn nằm ở thôn 4, xã Bình Dương. Cụ Toán chính là người chỉ huy, gắn bó với Bàu Bính từ những ngày căn cứ mới được xây dựng, khi trực tiếp chỉ đạo bám trụ và chiến đấu ở căn cứ lõm. Bàu Bính nằm trên vùng cát trắng mênh mông, không rào chắn, không còn rừng, chỉ duy nhất còn lại hai cây dương liễu với thân cây đầy rẫy vết bom đạn mà các chiến sĩ, người dân vẫn thường gọi là “cây dương thần”, hay cây dương ông, dương bà.

Hai cây dương liễu này có tuổi hơn 100 năm, nằm giáp ranh xã Duy Hải, huyện Duy Xuyên và xã Bình Dương, huyện Thăng Bình. Vùng đất cát thích hợp với cây dương liễu, các căn cứ cách mạng cũng bám vào những cây dương cổ thụ để che mắt địch. Nhưng cho dù địch đã phá hủy bao nhiêu cánh rừng dương liễu bạt ngàn của vùng đất này với âm mưu xóa sổ vùng căn cứ địa cách mạng, nhưng vẫn không hủy diệt được hai cây dương liễu ấy. Căn cứ lõm Bàu Bính được thành lập, cây “Dương Thần” là điểm tựa cho quân và dân. Dưới hai gốc dương này là những căn hầm bí mật che chở cho các chiến sĩ cách mạng, quân du kích an toàn.

"Ba lần tiễn con đi..."

Từ 1969-1972, thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” với sự hỗ trợ đắc lực về quân số và vũ khí của Mỹ, địch tập trung quân chủ lực tổ chức càn quét đánh phá dài ngày, trong đó có vùng Đông Thăng Bình, trọng tâm là các xã Bình Dương, Bình Triều, Bình Giang… Tháng 6.1970, địch quyết tâm “bình định” địa bàn vùng Đông Thăng Bình nên huy động một lực lượng lớn gần 9.000 quân mở cuộc càn quét quy mô. Năm 1971, căn cứ lõm Bàu Bính được lập làm căn cứ địa vùng Đông Thăng Bình, diện tích trên 2 km2, phía Bắc có 30 gia đình trụ bám của xã Duy Nghĩa, huyện Duy Xuyên, phía Tây có phòng tuyến bố trí nhiều bãi mìn, ổ tác chiến, có trạm tiền tiêu, có trạm phẫu thuật dã chiến, bên trong có công sự mật... Đây là nơi cán bộ, du kích thị xã Hội An và một số địa phương ở Duy Xuyên trú ngụ đi về làm nhiệm vụ của mỗi địa phương; là nơi tập kết lực lượng của tỉnh, của huyện và một số đơn vị tác chiến ở Thăng Bình.

Trong ký ức của người Bình Dương, di tích lịch sử căn cứ lõm Bàu Bính được thành lập, tồn tại hơn 2 năm ngay trước mặt quân thù là một minh chứng thể hiện tinh thần đấu tranh trung kiên, bất khuất của nhân dân Bình Dương nói riêng và Thăng Bình nói chung. Và cũng trong ký ức của những người đã từng sống, chiến đấu ở căn cứ lõm Bàu Bính vẫn còn mãi nỗi đau âm ỉ khi chứng kiến những vụ thảm sát, những cái chết tức tưởi của người thân, hàng xóm, đồng đội. Như ký ức tháng 10.1972, quân địch dùng máy bay B57 ném bom tọa độ xuống căn cứ lõm Bàu Bính làm chết 83 người. Đau đớn, khốc liệt, nhưng mọi người vẫn kiên cường bám trụ, tin tưởng đi theo cách mạng.

Bản hùng ca trên vùng cát trắng - Anh 3

 Bia căn cứ lõm Bàu Bính

Mỗi lần về thăm căn nhà của Mẹ Việt Nam Nguyễn Thị Khoáng (80 tuổi) ở làng Bàu Bính Hạ, chúng tôi đều được mẹ nấu cho bữa cơm ấm nóng. Từ căn nhà tình nghĩa, nhìn ra là dấu tích trường Hòa Bình, ngôi trường được thành lập năm 1955, chúng tôi lại được mẹ Khoáng, là một trong những người đi vận động thanh niên các xã lân cận về học kể cho nghe những câu chuyện. “Tiếng là trường chứ thật ra chỉ là những căn nhà lá tạm bợ, ở dưới chủ yếu là hầm. Hồi nớ ở đây cũng là nơi hội họp các đoàn thể, tổ chức các cuộc mít tinh nhằm triển khai chủ trương đường lối của Đảng”, mẹ Khoáng nhớ lại. Khu trường ấy bây giờ là tấm bia được ghi dấu di tích cách mạng cấp tỉnh, quanh đó vẫn là cát, xương rồng. Chỉ tay ra tấm bia, mẹ cho biết: “Ngay chỗ nhà bia bây chờ, năm 1965, lần đầu tiên dựng cầu danh dự để đưa tuyển hơn 300 thanh niên của xã xung phong lên đường tòng quân cứu nước. Sau lần đó, cầu danh dự trường Hòa Bình có sức hút rất lớn, động viên tinh thần thanh niên ở xã và các vùng lân cận tình nguyện nhập ngũ”.

Những lần về ngồi cùng mẹ, chúng tôi lại miên man trong câu chuyện kể về mẹ, một người phụ nữ chưa học hết lớp 3, nhưng dũng cảm, tìm kiếm nhiều phương thức để qua mặt nhiều lớp lính canh để tải lương thực, thuốc men về tiếp tế cho cán bộ, du kích ở căn cứ lõm Bàu Bính xưa. Và lần nào cũng vậy, ngược dòng ký ức, nước mắt mẹ lại lăn dài trên gò má nhăn nheo khi nhớ về ba người con đã hy sinh: “Chưa đầy 3 năm, mẹ đã ba lần đón tin dữ. Con gái đầu lòng hy sinh khi mới ngoài đôi mươi, rồi tiếp đó là hai người con trai. Đau đớn lắm con ơi”.

Những ngày tháng 7 này, chúng tôi về lại Bình Dương, căn cứ lõm Bàu Bính, những vùng cát trắng giờ đã xanh hoa màu. Tuyến đường Võ Chí Công ven biển kết nối Hội An với Khu kinh tế mở Chu Lai, với Đà Nẵng chạy qua địa phận xã Bình Dương, các khu du lịch mở vùng Nam Hội An đã mang lại cho vùng đất này một cuộc sống nhộn nhịp, kinh tế khởi sắc. Nhưng ở đó, những con người ở vùng biển này vẫn luôn giữ tâm hồn bình dị, khí chất hiên ngang của vùng đất căn cứ cách mạng xưa. 

HẢI MINH - T.HOÀI

Ý kiến bạn đọc