Phong vị Nam Bộ qua những trang văn Sơn Nam

TUY HOÀ

VHO - Trong sản nghiệp cầm bút đồ sộ của Sơn Nam (1926-2008), khó có thể phân biệt rạch ròi nhà văn Sơn Nam và nhà biên khảo Sơn Nam. Mỗi trang văn của ông lẫm chẫm dấu chân lấm bùn của những người đi mở cõi. Còn mỗi trang biên khảo của ông bồi hồi trái tim thương nhớ của một người nặng lòng xứ sở.

Phong vị Nam Bộ qua những trang văn Sơn Nam - ảnh 1
Nhà văn Sơn Nam qua nét vẽ Lê Sa Long

Cuộc đời 82 năm của Sơn Nam nổi danh là một ông già đi bộ. Hiếm có cái hẻm nghèo nào hay con kênh nhỏ nào ở Nam Bộ không thể tìm thấy bóng dáng trên tác phẩm của ông. Sơn Nam lầm lũi đi, Sơn Nam lặng lẽ nhớ, Sơn Nam nhọc nhằn viết. Khái quát về Văn minh miệt vườn, Sơn Nam nhận định: “Muốn hiểu cá tánh của Nam phần, tốt hơn hết là nên sưu tầm và nghiên cứu theo nhãn quan của nhà xã hội học, xem Nam phần là nơi mà dân Việt tiếp thâu nhưng phản ứng khi gặp văn hóa Tàu, Miên, Chàm, Pháp, Mỹ”.

Nhiều đoàn làm phim về người và đất Nam Bộ, cứ phải tha thiết mời Sơn Nam làm cố vấn. Bởi lẽ, ông không chỉ rành con sông bến nước, mà còn hiểu cặn kẽ những cuộc mưu sinh làm nên hồn vía đất đai. Nếu ai có may mắn gặp Sơn Nam ngoài đời, có thể nghe bao nhiêu câu chuyện kỳ thú bằng giọng điệu tếu táo. Còn trên trang giấy, Sơn Nam vẫn là một người kể chuyện đời xưa rất hấp dẫn. Mở đầu Hương rừng Cà Mau, Sơn Nam có mấy câu thơ tả chân ý vị: “Muỗi, vắt nhiều hơn cỏ. Chướng khí mù như sương… Chiều chiều nghe vượn hú. Hoa lá rụng buồn buồn… Hơi vọng cỏ nương bờ tre bay vút. Điệu hò ơ theo nước chảy chan hòa”. Và giữa không gian ấy, kiếp người nổi nênh được Sơn Nam gọi là “Một cuộc bể dâu”.

Những người Nam Bộ của một thời gian khó được Sơn Nam miêu tả với nhiều chi tiết đầy nghiệt ngã, bất hạnh mà cũng đầy nhân văn. Một cuộc bể dâu gây ám ảnh bởi số phận hai cha con lão Bích trên chiếc thuyền dập dềnh: “Thằng Kim bò trên xuồng, hươi dầm định đập lũ quạ đang liều lĩnh bu lại mũi xuồng. Lão Bích lắc đầu “Nó muốn rỉa xác tao thì cứ rỉa. Coi chừng chìm xuồng, ráng bơi tới nữa”. Và trước khi nhắm mắt, người cha còn nhớ mình có cái áo đang mặc đã cất giọng yếu ớt: “Ba để lại cho con chiếc áo này… Yếu quá… Ba ngồi dậy cởi áo không được…”. Chỉ một đoạn ngắn ngủi thôi, cũng đủ thấy tình người vẫn cao đẹp trong khốn cùng, cũng đủ cho người đọc thấy trước mặt mình nhạt nhòa xúc động, vì khi viết có thể Sơn Nam cũng đã khóc bao lần.

Mỗi tác phẩm của Sơn Nam hiện diện một mảnh đời không nhầm lẫn vào đâu được. Sự cô đơn của con người với mênh mông sông nước, được chứng minh bằng ông giáo trong tiểu thuyết “Chim quyên xuống đất” nhiều trắc ẩn. Ở một góc nhìn khác, Sơn Nam tái dựng những con người biết đấu tranh cho lẽ phải. Chẳng hạn truyện dài Hình bóng cũ, khi chứng kiến bọn cường hào ác bá ức hiếp nông dân, một cô gái nghèo tên Thừa đã cởi hết quần áo để đứng chắn ngang ống kính đạc điền và cãi lý cho những người thấp cổ bé họng.

Thời gian càng lùi xa, tác phẩm của Sơn Nam càng có giá trị lịch sử. Muốn tìm hiểu về quá trình phát triển Nam Bộ, không thể không đọc Sơn Nam. Dấu vết khai hoang lập ấp dày đặc trong văn chương Sơn Nam. Đọc Tìm hiểu đất Hậu Giang không thể nào quên được nét độc đáo của sân chim: “… Cũng theo lời thuật lại, sân chim rộng hơn 10 mẫu, nồng nực mùi phân, mặt đất như bốc khói vì hơi thở của bao nhiêu con chim mẹ đang hò hét hoàng hôn. Loại lông ô rất thính hơi người, ai nấy phải cởi áo ra để giấu mùi mồ hôi. Đêm đến, họ ra tay giết chim, nhổ lông rồi kéo xác chim bỏ xa. Mỗi năm, họ vào sân lấy lông chừng đôi ba lần, cũng từ tháng giêng, tháng hai, tháng ba… Huê lợi tuy to tát nhưng phung phí nhiều sức khỏe nên ít ai muốn mạo hiểm. Ngày nay loại lông ô, chó đồng, già sói, bồ nông của sân chim ngày xưa đã thành giai thoại...”.

Phong vị Nam Bộ qua những trang văn Sơn Nam - ảnh 2
Sông nước miền Tây. Ảnh: MINH LƯƠNG

Không chỉ am tường vùng sông Cửu Long, khu vực miền Đông Nam Bộ cũng được Sơn Nam nắm bắt kỹ lưỡng. Đặc biệt, Sơn Nam có không ít nghiền ngẫm về kinh tế Nam Bộ. Sơn Nam kể chuyện làm ăn xứ Đồng Nai. Còn thương nghiệp Bình Dương được Sơn Nam nhấn mạnh: “Nghề mộc một thời khiến cho Bình Dương nổi danh cả phía Nam, vì ở tỉnh Thủ Dầu Một nên dân gian quen ca ngợi là “thợ Thủ”, tay nghề cao. Người Pháp ngay những năm đầu thế kỷ đã tổ chức Trường Mỹ thuật Gia Định (chuyên hội họa), trường dạy gốm ở Biên Hòa và trường chuyên đồ Mộc (gọi là trường Bá Nghệ) ở Thủ Dầu Một. Nhờ trường mộc này, tay nghề của thợ Thủ được hiện đại hóa. Người Pháp đã thấy thế mạnh của Bình Dương là gỗ quý (gõ, cẩm lai, bằng lăng…) nên đã đưa nhiều thợ giỏi về mộc từ bên Pháp sang dạy cho dân địa phương…”.

Hầu như suốt những năm tháng cầm bút của mình, Sơn Nam luôn tìm cách đưa “lịch sử khẩn hoang miền Nam” vào trang viết. Truyện ngắn, tiểu thuyết hay biên khảo của Sơn Nam đều phơi bày sự chan hòa giữa con người và thiên nhiên. Ở đó, con người khám phá thiên nhiên và thiên nhiên nâng đỡ con người. Tác phẩm Bà chúa Hòn có đoạn kể như một thước phim ấn tượng: “Tư Thính đặt con bé Huôi ngả vào gốc cây thị. Dưới gốc cây thị có một con rắn bò lên. Rắn quấn mình chung quanh bụng bé Huôi, quấn một vòng, hai vòng, ba vòng rồi đến bốn vòng. Sau rốt, rắn ngẩng cổ lên, cao khỏi đầu bé Huôi. Kỳ dị nhứt là cái đầu rắn, cái đầu vươn lên nghiêng tới như cố ý che nắng cho bé Huôi”.

Ngày xuân, mở cuốn từ điển có tên là Sơn Nam, chúng ta được chiêm ngưỡng bao nhiêu cảnh sắc Nam Bộ nồng nàn và quyến rũ. Ít ai biết, để có những câu chuyện náo nức người đọc, Sơn Nam có không ít niềm riêng: “Thời buổi nào cũng thế, việc văn chương khó đem lại giàu sang. Dại như con trẻ chơi diều đứt dây. Không đứt dây, con diều giấy chỉ cao hơn mức nào đó thôi, bị hạn chế, dây đứt. Người chơi sung sướng, ngỡ rằng nó đã lên cao, biệt tích trên chín tầng mây, dè đâu trong thực tế nó đã dầm trong vũng bùn, hoặc treo lủng lẳng trên sợi dây điện nào đó, như người tự tử, thắt cổ chưa chết, đung đưa. Nói đến Chân Thiện Mỹ thì bao la trừu tượng, bao nhiêu vấn đề nóng bỏng. Hàng tiêu dùng, bạo lực, quảng cáo lắm khi gây ảo tưởng về chân lý. Cái hố giữa người nghèo và người giàu càng sâu rộng, buổi giao thời”.