Nhà giáo viết về nghề giáo
VHO - Nhìn vào dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại, trong đội ngũ sáng tác văn học của mọi thời kỳ đều có một bộ phận không nhỏ những người thày cô giáo, những người trực tiếp đứng lớp hoặc từng có những thời kỳ công tác trong ngành giáo dục.
Điều thú vị hơn nữa là chính họ lại những có những tác phẩm viết về nghề dạy học, về môi trường giáo dục. Câu chuyện của người trong cuộc vì thế càng thấm đẫm những điều mà người khác không thể có được. Những sáng tác này cho chúng ta một bức tranh phong phú và sống động về nhà giáo và nghề giáo.

1. Trong các cây bút văn xuôi tên tuổi của văn học Việt Nam thế kỷ 20, Nam Cao, Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng đều có những thời kỳ dạy học và có các tác phẩm viết về nghề giáo.
Với Sống mòn, Nam Cao đã dựng lên một bi kịch của người tri thức thông qua nhân vật thầy giáo Thứ. Thứ từ bỏ làng quê để lên Hà thành làm thầy giáo dạy cho một trường tư của người anh họ tên là Đích với hy vọng có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Thế nhưng ước mơ ấy ngày càng tàn lụi bởi bao mối lo toan hàng ngày, từ chuyện thuê nhà trọ, tiền lương không đủ sống cho đến những đối xử ích kỷ, hẹp hòi của những người xung quanh. Thứ bị rơi vào một bi kịch của cái nghèo khiến anh cảm thấy đời mình “chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống”. Cũng chính cái nghèo đã đẩy vợ chồng Thứ-Liên mỗi người một ngả.
Với Nguyễn Huy Thiệp, nghề giáo và hình ảnh người thầy giáo in dấu vào nhiều truyện ngắn của ông như Sống dễ lắm hay Những bài học nông thôn. Trong truyện Sống dễ lắm, ông thầy giáo già đã tâm sự với học trò của mình khi học trò dẫn con đến thăm thầy rằng: Đời sống thật ra cũng dễ thôi, cứ nhìn vào mắt trẻ con mà sống. Suy rộng ra, nếu muốn làm một người thầy giáo tốt, cứ nhìn vào mắt trẻ con mà dạy học.
Còn trong Những bài học nông thôn, anh giáo Triệu đã lấy cả thân mình che chở cho học trò khi bị con trâu điên từ xa chạy lại đâm. Anh Triệu đã chết để cho học trò của mình được sống. Cái chết ấy có thể được xem như một ẩn dụ về sự hy sinh lớn lao của những người thầy.
Từ Nam Cao, Nguyễn Huy Thiệp cho đến Ma Văn Kháng sau này đều có một điều quan tâm đau đáu, đó là làm sao người thầy giữ được nhân cách, giữ được thiên lương của mình, không bị tha hóa, bào mòn bởi môi trường, hoàn cảnh chung quanh.
Nhân vật anh giáo Tự trong tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú cũng lặp lại bi kịch của cái nghèo, phải dứt lòng bán đi từng cuốn sách của mình, bị vợ chì chiết hàng ngày vì đồng lương chết đói. Tự như một cuốn sách hay bị đặt lầm chỗ bởi những người xung quanh anh hầu hết đều chẳng ra gì.
Cuốn tiểu thuyết được Ma Văn Kháng viết vào giai đoạn cuối của thời bao cấp, khi cả xã hội còn đang đầy dẫy khó khăn, hơn thế nữa, cái nghèo còn dễ dẫn đến những băng hoại về đạo đức mà những người có lương tri, đặc biệt như anh giáo Tự không thể chấp nhận. Như vậy, từ Nam Cao cho đến Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng đều quan tâm đến vấn đề đạo đức, nhân cách của nhà giáo và nghề giáo.
2. Nếu như ở mảng văn xuôi, những trang viết về nhà giáo, nghề giáo buồn nhiều hơn vui, mỗi tác giả đưa vào tác phẩm của mình biết bao câu chuyện bộn bề của cuộc sống, thì ở mảng thơ, độc giả dễ bắt gặp những tình cảm ấm áp. Có ba nhà thơ từng công tác trong ngành giáo dục đều có những bài thơ nổi tiếng về hình ảnh cô giáo.
Đó là nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh với bài Cô giáo của em, nhà thơ Định Hải và nhà thơ Nguyễn Trọng Hoàn đều có bài thơ mang tên Bàn tay cô giáo: Sáng nào em đến lớp/ Cũng thấy cô đến rồi/ Đáp lời: Chào cô ạ!/ Cô mỉm cười thật tươi (Nguyễn Xuân Sanh), Bàn tay cô giáo/ Vá áo cho em/ Như tay chị cả/ Như tay mẹ hiền (Định Hải), Một tờ giấy trắng/ Cô gấp cong cong/ Thoắt cái đã xong/ Chiếc thuyển xinh quá/ Một tờ giấy đỏ/ Mềm mại tay cô/ Mặt trời đã phô/ Nhiều tia nắng tỏa/ Thêm tờ xanh nữa/ Cô cắt rất nhanh/ Mặt nước dập dềnh/ Quanh thuyền sóng lượn/ Như phép màu nhiệm/ Hiện trước mắt em/ Mặt biển bình minh/ Rì rào sóng vỗ/ Biết bao điều lạ/ Từ bàn tay cô (Nguyễn Trọng Hoàn).
Có thể nói, trong suốt cuộc đời đi học, mỗi chúng ta đều có những ấn tượng, những kỷ niệm không phai mờ với các cô giáo. Chỉ có các cô giáo mới tỉ mỉ, chăm chút, dạy bảo học trò luyện từng nét chữ, chỉ có các cô giáo mới đủ nhẫn nại để vừa dạy vừa dỗ, vừa trông những đứa trẻ thuở mới chập chững đến trường.
Thế nên một điều dễ nhận thấy, ở hai cấp học là mẫu giáo và mầm non, hầu hết các giáo viên đều là cô giáo chứ không phải thày giáo. Sau này, khi học lên những lớp cao hơn, những cô giáo giảng văn luôn có một sức truyền cảm đặc biệt.
Có những nhà thơ – nhà giáo đã viết về ngành giáo dục trong suốt cuộc đời sáng tác của mình. Một trong những người điển hình nhất chính là nhà thơ – nhà giáo Đặng Hiển.
Tập thơ Mái trường mến yêu (NXB Giáo dục, 2015) tuyển chọn 90 bài thơ viết về nghề giáo – nhà giáo trong suốt cuộc đời dạy học gần 40 năm của ông. Những bài thơ sớm nhất được ông viết từ đầu thập niên 60 của thế kỷ trước: Em ơi về trường mới/ Lòng ta như mở hội/ Những bậc thềm mát rượi dưới chân/ Ấm tường vàng, thơm những cửa vừa sơn (Về trường mới). Ông đã viết không ít những bài thơ dành tặng cho những học trò có số phận không may mắn như các bài Tưởng niệm, Oan nghiệt, Thương em Hương mắc bệnh hiểm nghèo…
Ông viết những bài thơ với đề tài là chính các tác giả tác phẩm trong chương trình Ngữ văn phổ thông, góp phần giúp các em cảm thụ tốt hơn, hiểu sâu sắc hơn về từng tác giả tác phẩm. Có thể kể đến nhiều bài thơ thuộc mảng này như: Đọc Độc tiểu thanh ký của Nguyễn Du, Bên nhà lưu niệm Nguyễn Bính, Trương Chi…
Nhắc đến nhà thơ Đặng Hiển, người đọc nhớ đến một tấm lòng bao dung, nhân ái, luôn tràn ngập tình yêu dành cho học trò, như bài lục bát Xa lạ mà ông từng viết: Vì sao lại thế em ơi/ Hình như thày đã có thời dạy em/ Vì sao ánh mắt em nhìn/ Như người xa lạ gặp trên xe tàu/ Thày trò xưa đã nghiêng đầu/ Bên trang sách mới ánh màu phượng bay/ Ngày xưa em đã chào thày/ Nụ cười tươi thắm nở đầy niềm tin/ Ngày xưa ánh mắt em nhìn/ Từng như tia nắng dịu êm tim thày/ Thời gian mái tóc thày thay/ Còn em đâu nét thơ ngây thuở nào/ Hay là em có niềm đau/ Ước mơ ngày cũ tan vào thời gian/ Hay là đời lắm lo toan/ Làm bao kỷ niệm héo tàn trong em/ Hay là em mải bước lên/ Trường xưa lớp cũ lỡ quên lối về/ Thì em ơi cứ đi đi/ Cầu cho thuyền ấy ngày kia đến bờ/ Tới ngày em thỏa ước mơ/ Trong chùm hoa tặng có thơ của thày. Dù học trò có quên thày, chẳng còn chào thày như ngày xưa nữa, thì thày vẫn luôn cầu chúc những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với trò, sẽ có thơ mừng trong ngày trò thành công viên mãn.
Những nhà thơ – cô giáo lại có những nỗi niềm khác khi trải lòng mình qua những trang thơ. Nhà thơ Phi Tuyết Ba thuộc lớp nhà thơ trưởng thành thời hậu chiến. Bà sinh ra ở Quảng Bình, dạy học ở Hà Nội trong suốt cuộc đời công tác của mình. Điều thú vị ở chỗ, bà là giáo viên dạy Toán nhưng lại say mê văn chương và đã xuất bản hàng chục tập thơ.
Một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của bà là bài Phép chia không có lỗi, lấy chính công việc dạy Toán hàng ngày làm đề tài cho tác phẩm: Bầu trời kia lúc đục lúc trong/ Con sông quê khi đầy khi cạn/ Không có phép chia mưa khi nắng hạn/ Không có phép chia đều no ấm yên lành/ Nơi con hòa bình nơi khác chiến tranh/ Phía trước văn minh đằng sau tăm tối/ Người sang kẻ hèn người no kẻ đói/ Trên trái đất này hạnh phúc chẳng chia đều/ Lớn lên rồi con sẽ hiểu Tình yêu/ Không tìm được dễ dành như phép tìm thương số/ Dẫu vậy/ Mẹ vẫn muốn con tin vào sách vở/ Bởi phép chia không có lỗi đâu con.
Từ một phép chia cụ thể, bài thơ đã nâng tầm khái quát để triết lý về phép chia trong cuộc đời. Và điều mà tác giả muốn gửi gắm đến đứa trẻ, ở đây không chỉ là học trò mà còn chính là đứa con của mình, đó là cần bước vào cuộc đời với một trái tim đầy yêu thương nhân ái, biết sẻ chia đồng cảm với những nỗi đau khổ, thiệt thòi của những đời sống quanh ta.
Nhà thơ – nhà giáo Bùi Kim Anh cũng làm thơ từ sớm và liên tục sáng tác trong suốt quãng đời dạy học của mình. Bà đã có những bài thơ viết cho học trò lên đường đi nhập ngũ đầy cảm động. Những nhà giáo như vậy đâu chỉ đào tạo kiến thức cho học trò mà còn truyền cho các em tình yêu tổ quốc, góp phần tạo ra những anh hùng cho đất nước: Nắng hạ thêm lần nhận tin em/Phong bì không in dấu hòm thư quen thuộc/Em đang ở trên đường ra phía trước/Viết vội vài dòng gửi cô/Năm học bắt đầu rồi em có nghe không/Vẫn thầy hiệu trưởng già và tiếng trống/Lớp học vào làng sân trường tạm vắng/Nỗi nhớ học trò trĩu nặng hàng cây…
Sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói, đại ý: Dưới ánh sáng mặt trời, không nghề gì vinh quang bằng nghề dạy học. Một xã hội không thể phát triển tốt đẹp nếu không có một nền giáo dục tốt đẹp. Chúng ta càng trân trọng và thấu hiểu hơn bao góc khuất vui buồn của nghề nhà giáo qua các sáng tác văn chương của chính những người trong cuộc viết ra.
Nghề giáo và nhà giáo không chỉ là cảm hứng sáng tác của văn học mà còn là cảm hứng cho rất nhiều ca khúc nổi tiếng từ xưa đến nay. Có thể kể đến hàng loạt tác phẩm như: Bài ca người giáo viên nhân dân (Hoàng Vân), Cô giáo Tày cầm đàn lên đỉnh núi (Văn Ký), Ước mơ xanh (Lệ Giang), Em đứng giữa giảng đường hôm nay (Tân Huyền), Bụi phấn (Vũ Hoàng phổ thơ Lê Văn Lộc), Khi tóc thầy bạc trắng (Trần Đức).
Để khép lại bài viết này, xin được dùng những ca từ trong ca khúc Người thầy (Nhạc và lời: Nguyễn Nhất Huy) để gửi tới những người thầy cô giáo lòng biết ơn vô hạn của bao thế hệ học trò: Dù năm tháng vô tình trôi mãi mãi/ Tóc xanh bây giờ đã phai/ Thầy vẫn đứng bên sân trường năm ấy/ Dõi theo bước em trong cuộc đời/ Dẫu đếm hết sao trời đêm nay/ Dẫu đếm hết lá mùa thu rơi/ Nhưng ngàn năm làm sao em đếm hết công ơn người thầy.

RSS