“Một mùa mây trắng - Mấy mùa thơ”: Hành trình thi ca Nguyễn Tiến Thanh

PGS.TS LÝ HOÀI THU

VHO - Trong tọa đàm “Thơ Nguyễn Tiến Thanh trong sự vận động của thơ Việt Nam đương đại” do Hội Nhà văn Việt Nam và Viện Văn học tổ chức, PGS.TS Lý Hoài Thu trình bày tham luận “Một mùa mây trắng – Mấy mùa thơ” như một hành trình đi tìm bản thể thi ca trong thế giới sáng tạo của Nguyễn Tiến Thanh. Từ biểu tượng “mây trắng” trở đi, bài viết mở ra những tầng nghĩa về ký ức, tình yêu, sự cô đơn và khát vọng nhân sinh – nơi thơ không chỉ là ngôn ngữ nghệ thuật mà còn là cách nhà thơ nhận ra và lưu giữ linh hồn mình giữa dòng chảy thi ca đương đại.

“Một mùa mây trắng - Mấy mùa thơ”: Hành trình thi ca Nguyễn Tiến Thanh - ảnh 1
Quang cảnh tọa đàm “Thơ Nguyễn Tiến Thanh trong sự vận động của thơ Việt Nam đương đại” do Hội Nhà văn Việt Nam và Viện Văn học phối hợp tổ chức

Tự cổ chí kim, mây, có thể xem là một mẫu gốc/ nguyên sơ tượng, được xếp vào hàng “tứ quý” gồm “phong, vân, tuyết, nguyệt” trong hệ sinh thái thiên nhiên của thơ ca. Là người bạn tâm giao của muôn đời thi sĩ. Cùng với trăng, sao, hoa, gió, mây là một dạng ký hiệu/ biểu tượng nghệ thuật có sức ánh xạ, phản chiếu thế giới nội tâm của thi nhân, là đường link kết nối giữa cảnh quan và tâm tưởng, giữa bao la vô tận đất trời và nhỏ bé hữu hạn kiếp người.

Đọc Nguyễn Tiến Thanh, rất dễ nhận thấy hình ảnh/ hình tượng mây hiển thị với tần số cao lên ngôn từ tác phẩm và được hóa thân thành nhiều phiên bản khác nhau. Đó không chỉ là sự ánh phản mối quan hệ/ tương tác giữa “cái biểu đạt” và “cái được biểu đạt” mà còn là chỉ số cảm xúc, khả năng trình hiện và tái tạo hệ thống motif thơ; xa hơn là chân dung tâm hồn, đặc điểm thi pháp và cá tính sáng tạo của nhà thơ.

Trong lời Phi lộ của tập thơ đầu tay, Nguyễn Tiến Thanh ví mình như “người đã đi qua mùa mây trắng”. Cái nôi nghệ thuật Văn khoa Đại học Tổng hợp luôn hiện hữu trong tâm cảm nhà thơ: “Đôi khi, mình vẫn nằm mơ về thời đi học ở Khoa Văn, rượu say chất ngất, vĩ cuồng trên mây, cả ngày không làm gì, chỉ làm mỗi…thơ và bàn toàn những chuyện viển vông, xa rời thế sự”… Từ nơi ấy bước ra, hành trang thơ của Nguyễn Tiến Thanh  đầy ắp ký ức, hoài niệm, tâm hồn lại được chắp thêm đôi cánh lãng mạn nên càng bay bổng giữa thiên hà: “Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” (Xuân Diệu)…

“Một mùa mây trắng - Mấy mùa thơ”: Hành trình thi ca Nguyễn Tiến Thanh - ảnh 2
PGS.TS Lý Hoài Thu trình bày tham luận “Một mùa mây trắng – Mấy mùa thơ” tại tọa đàm

Mỗi mùa mây trên hành trình thơ Nguyễn Tiến Thanh đánh dấu một chặng đường sống và viết, trải nghiệm và cất cánh. Song cả 3 tập thơ từ Chiều không tên như vết mực giữa đời đến Loạn bút hành và gần đây là Viễn ca – tập thơ đoạt giải thưởng năm 2024 của Hội Nhà văn Việt Nam đều có chung một tư thế “ngoái lại” chốn “Tuyệt tình cốc” - ký túc xá Mễ Trì, một không gian thấm đẫm hương vị tình yêu, miền giao cảm ngự trị tâm trí, nguồn thi hứng không bao giờ vơi cạn của nhà thơ. Và mây vừa là thực thể thiên nhiên tràn đầy chất thơ, vừa là bầu tâm sự chứa nhiều cung bậc của thi nhân. Lời “Ghi chú sau mây” (tên một tập thơ của Hữu Thỉnh) dưới đây đã vén lên bức màn tâm trạng nhiều suy tư, day dứt, hụt hẫng, luyến tiếc trước sự lựa chọn phải xa rời ngôi nhà Tiến Thanh đã gắn bó gần một phần tư thế kỷ, nơi cất dấu, lưu giữ quãng đời thanh xuân chất ngất kỷ niệm vui buồn:

Tỉnh là mê, đến là đi

Chắc mây vẫn trắng bởi vì mây bay

(Bởi vì mây bay)

Câu thơ đọc lên nghe cứ nhẹ tênh mà vẫn không che dấu được diễn biến nội tâm phức tạp, đầy nghịch lý, nửa muốn buông xuôi, dứt bỏ, nửa tìm cách níu kéo. Nhưng may mắn là ở trạng thái chơi vơi ấy nhà thơ đã tìm ra điểm tựa. Vì thế mây đã hiện diện như một chiếc phao cứu sinh, một phương thuốc "chữa lành" vỗ về, an ủi.

Nếu ở tập thơ Chiều không tên như vết mực giữa đời, mây/ mùa mây hiển thị như những tín hiệu tình yêu non trẻ, những rung động đầu đời:

Anh ngoái lại, cả một mùa gió thổi

 Một mùa mây trôi qua tuổi học trò

(Đôi mắt huyền và ngọn cỏ mùa thu)

Và khung trời thương nhớ, gắn với tuổi học trò trong thơ Tiến Thanh, vì lẽ đó, thường hiện hữu qua sắc tím lung linh, huyền ảo. Đó là mỹ danh của tuổi hoa niên. Nó không chỉ nhuộm tím cả màu mây phía chân trời thăm thẳm mà còn đi theo người thơ đến suốt cuộc đời:

Ngày tìm em mây tím cuối chân trời

Nên có lẽ mùa thu đừng đến nữa…

Thương nhớ cũ đứt ngang chiều tuổi dại
Mây trắng trời, khôn lớn trắng bàn tay

(Điều đó dĩ nhiên rồi)

thì đến Loạn bút hành, một tập thơ mà yếu tố trữ tình, tính thơ tưởng như bị “mờ hóa” ít nhiều bởi cái tên khác lạ. Cảm nhận chung là mặc dầu ở mùa thơ thứ hai này, kinh nghiệm sống và "kỹ thuật" viết của tác giả đã được bồi đắp, song tâm thế ngoảnh lại đầy vấn vương chốn cũ người xưa là không thay đổi:

Tưởng buông hết mưa nguồn chớp bể

 Đâu có ngờ mây trắng vẫn hư vô

(Tổng kết)

Dù năm dù tháng, góc bể chân trời, dù giữa phố thị tấp nập hay đồng quê yên tĩnh, tư duy thơ Tiến Thanh luôn mở ra nhiều chiều liên tưởng. Nhà thơ như thổi hồn vào cây cỏ, nhìn cảnh vật bằng chính những xao động nội tâm, ngoại cảnh và tâm cảnh đan cài:

Kể từ ngày bỏ những mùa mây trắng mà đi

Mang theo câu hỏi bồng bềnh như khóm lục bình mênh mang màu mực tím

(Ngủ quên trên vai hoàng hôn)

Đi qua xuân hạ thu đông, bình minh hay hoàng hôn, những chiều không nắng, chiều thật buồn…; tâm trạng thi nhân luôn bị bao phủ trong màn sương ký ức và nỗi nhớ không mùa. Giữa đám đông ồn ào, món nợ quá khứ luôn trở đi trở lại khiến anh thấy mình càng lẻ loi, đơn độc, lạc nhịp;

Người về chém gió trên “phây”

Thì ta tóc xõa ngang mây cuối đèo

Tháng năm trôi, lá bay vèo

Post lên mực tím, ngập chiều phố xưa

                                                            (Facebook (1))

Mặc cảm vong thân luôn hiện hữu bởi sâu trong thâm tâm, người viết đã ý thức rằng việc quay lưng, lãng quên phần đời tươi đẹp đáng yêu xưa có thể xem là hành vi xóa mờ nhân vị, đánh rơi chính mình:

Nếu xưa mây trắng đừng bay vội

Thì đã bây giờ thôi nhớ…tôi

(Ngũ thập)

Và đến mùa thơ thứ 3, Tập Viễn ca, nỗi niềm ấy càng được khắc tâm, ghi cốt như một câu hỏi giày vò, ám ảnh chưa thể giải minh khiến chủ thể có lúc rơi vào tình cảnh “tự thương”. Điều đó được cắt nghĩa bởi nếu làm một thống kê cơ học thì ở tập thơ này, tỉ lệ những câu thơ về mây chiếm tỉ lệ cao nhất trong 3 tập thơ, ý nghĩa ẩn dụ của ký hiệu mây, theo đó, được mở rộng thêm nhiều tầng bậc, đa dạng và độc đáo hơn:

Ngày hôm  qua – dọn ra – một mâm ký ức

Mây bảng lảng trên đầu như khói bếp, dậy mùi trầm luân

Nửa đời tóc hóa rong rêu

Môi cười mà mắt vẫn hiu quạnh buồn

(Viết sáng mồng 1)

Vào tuổi ngũ thập, Tiến Thanh "sống chậm" hơn. Khí chất trượng phu ngang tàng phiêu bạt Ta vốn chẳng thèm kiêng gió cát/ Đầu trần đi giữa nắng nhân gian với Môi chiều, tóc mộng, mắt sơn khê đã thôi giục giã, nhất là khi chủ thể đã "giác ngộ trong cơn đói chân trời" và thấm mệt vì Môi phiêu lãng tái màu dâu bể, giọng thơ, vì thế mang giai điệu trầm lặng, chứa nhiều ẩn ý:

Thưa mây có một vô thường

Vừa trôi qua ngã ba đường trăm năm…

Thưa em có một lãng quên

Về trên ngày tháng gọi tên muộn màng

                                                             (Báo cáo)

Khước từ những chuyến độc hành triền miên, giã từ những hoang tưởng hư vô, nhà thơ đã dịch chuyển về miền không gian cá nhân để tìm lại chính mình giữa tha nhân - Trời sinh ra một giống nòi/ Ngồi trong cõi mộng hát lời tim đau:

Đâu thể kéo những hoa hồng dĩ vãng?

Rạng ngời đau trong vệt sáng ven trời

Em có biết tương tư và trái cấm

Đã muôn đời lưu lạc giữa mây trôi…

 

Đỏ hoa phượng, cháy ngang trời hạ lửa

Quán ven đường ta “cắm” tuổi thanh xuân

Dốc cạn túi chỉ còn câu thơ cũ

Lăn cuối chiều khất nợ những hoàng hôn

Lá rụng xuống sân trường năm 88

Ta năm mươi ngồi viết thơ buồn

(Lá rụng xuống sân trường năm 88)

Tiến Thanh có bài thơ mang tên Tự khúc, được viết như một bản độc thoại nội tâm, lấy thân phận đời tư để rọi soi vào trăm năm dâu bể, vào những may rủi, được mất, hơn thua ở đời: Giống như ta – rất tần ngần/ Nửa này áo mũ, phong trần nửa kia… Tím chiều mây phủ sơn khê/ Tái môi, trắng tóc mà lê thê hồn. Không riêng “Tự khúc”, rất nhiều bài thơ của Tiến Thanh mang sắc diện ngậm ngùi buồn nhưng đó là nỗi buồn thanh cao, dễ tạo sự đồng cảm, đồng điệu giữa những người yêu vẻ đẹp nguyên bản này của thơ:

    Ta đi tái nhợt chân trời

Đường chưa thăm thẳm đã vời vợi mây

Xin dừng chân trước mai ngày

      Viễn ca một khúc mà đày đọa nhau

(Viễn ca)

Hiển nhiên đây chỉ là một góc tiếp cận nhỏ trong mạng lưới ẩn dụ thơ gắn với câu chuyện Tiến Thanh “dứt áo” rời khỏi khoa Văn Tổng hợp nhưng lại rơi vào nghịch cảnh “người ra đi” và "đầu thì ngoảnh lại" (!)… Chính vì vậy, ngoài thơ, thông qua những lời tự bạch, Tiến Thanh cũng đã nhiều lần giãi bày nỗi lòng riêng trước cuộc chia ly nặng nề: “Ở cái tuổi gần ngũ thập, chạm ngưỡng tri thiên mệnh và không còn vô minh, đôi lúc mình nhận thấy chính bản thân và một số bạn bè mới thực sự là vong thân, trôi nổi trong đời phàm tục, làm những điều mình bắt buộc phải làm chứ không phải điều mình thích… Hơn 20 năm trước, bỏ trường đi làm báo (một nghề… giết văn), rồi lại bỏ bút đi làm quản lý, là đúng hay sai đây?” (Người đã đi qua mùa mây trắng I).

“Một mùa mây trắng - Mấy mùa thơ”: Hành trình thi ca Nguyễn Tiến Thanh - ảnh 3

Ở một hệ quy chiếu khác, cùng với sự vận động linh hoạt, sáng tạo của tư duy thơ và khả năng chiếm lĩnh hiện thực được biểu thị qua sự đa chiều của cảm quan nghệ thuật về đời sống xã hội và con người; nhìn tổng thể, biểu trưng mây trong thơ Tiến Thanh đã quy tụ nhiều vấn đề mang màu sắc/ ý nghĩa triết lý về muôn mặt thế sự, về cái thường hằng và vĩnh hằng, lẽ thường và lẽ biến trong nhịp điệu tạo hóa, nhân sinh (Ngôi nhà mùa thu, Lữ hành, Mưa bụi, Chợ trưa, Ngày hôm qua, Sapa, Mây cũng giống sương mù, Đã có những qua rồi, Một tình cờ thiên thu…).

Có thể nói, Nguyễn Tiến Thanh là một hình mẫu thi nhân sinh động, đa năng, lại mang trong mình bộ gene nghệ sĩ của Văn khoa – Tổng hợp: tài hoa, duy mỹ, mơ mộng, đa tình đa cảm, “ga lăng”, giàu lòng trắc ẩn...  "Tiến Thanh làm thơ tự độ tuổi thanh xuân. Quãng những năm 1986 – 1999 anh cùng các thi hữu trong nhóm thơ Thanh Xuân đi khắp chốn đại học, mang theo không gian thơ đặc chất văn khoa không lẫn với bất cứ khoa nào” (Trần Nhật Minh); “Một lãng tử hiếm hoi, một lãng tử theo nghĩa rất đáng yêu và đáng mến” (Nguyễn Thanh Phong)… Trên nền tảng tri thức đầy đặn và phẩm tính nghệ sĩ dồi dào,  thơ Nguyễn Tiến Thanh là sự kết hợp giữa những luồng rung động tinh tế và mạch trầm suy ngẫm sâu xa, giữa sự hồn nhiên trong trẻo và sự từng trải già dặn; giữa ngọt ngào, sâu lắng, gây thương gây nhớ, không làm tổn thương dù một ngọn cỏ, bông hoa và giọng điệu tự vấn, phản tư, giễu nhại, ít nhiều mang tính “gây hấn”, thách thức đối thoại, phản biện; giữa hư và thực, trực giác và lý tính vv… và vv… Tất cả được hòa phối một cách nhịp nhàng tạo nên tính phức hợp, đa âm điệu, đa sắc màu cùng sự sống động cho bức tranh thi giới.

Gần đây, trong một lần đàm đạo về thơ, Nguyễn Tiến Thanh đã nói ra những điều tâm huyết: “Thơ không cần phải “viral”. Thơ cần một khoảnh khắc trung thực tuyệt đối – với chính mình… Viết ra một câu thơ – không phải để ai đọc, mà để chính mình còn nhận ra mình – đó là chức năng đầu tiên, quan trọng nhất và thầm lặng nhất của thi ca. Một dạng ghi nhớ mà không cần đến ổ cứng, một bản sao lưu của linh hồn (Viết và đọc chuyên đề mùa hạ 2025). Phát ngôn ấy cho thấy anh đã rất thấm nhuần nguyên lý thơ ca; nói cách khác là đã lựa chọn đúng “điểm rơi” thể loại: “Thơ là tiếng lòng. Không thể trái với lòng mà nẩy ra thơ. Lòng như nhật nguyệt thì thơ cũng như ánh sáng nhật nguyệt, cứ theo nơi ánh sáng mà đến thì sẽ thấy được mặt trăng, mặt trời…” (Lời cổ nhân Trung Hoa).

Bằng tài năng và nhiệt tâm ấy, với 3 tập thơ, Nguyễn Tiến Thanh là một bản thể thi nhân đã kiến tạo được mối giao hòa giữa các giá trị tinh túy, cốt lõi, bền vững của thơ ca truyền thống và sức sống thanh tân lành mạnh của thơ hiện đại, giữa bảo lưu và tìm tòi đổi mới, trở thành gương mặt nổi bật có dấu ấn và bản sắc riêng trong dòng chảy của thơ ca đương thời. Thơ Tiến Thanh giàu nội lực và có sức thăng hoa bởi lộ trình nghệ thuật của anh được khởi nguồn bằng những bài học nhập môn thấm đẫm tinh thần, triết lý và quy luật muôn đời của thơ ca.

Tin liên quan

Ý kiến bạn đọc