Nửa thế kỷ văn học nghệ thuật Việt Nam:

Hành trình thống nhất và phát triển

PGS.TS BÙI HOÀI SƠN

VHO - Ngày 30.4.1975 ghi dấu mốc lịch sử trọng đại khi đất nước thống nhất non sông, mở ra một chương mới cho nền văn hóa, văn học, nghệ thuật (VHNT) nước nhà.

Trải qua 50 năm xây dựng và trưởng thành (1975-2025), VHNT Việt Nam đã đồng hành cùng dân tộc trên mỗi bước đường phát triển, đóng góp to lớn vào công cuộc bảo vệ Tổ quốc và kiến thiết đất nước.

 Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.

Thấm nhuần lời dạy đó, các thế hệ văn nghệ sĩ Việt Nam suốt nửa thế kỷ qua đã không quản ngại gian khó, âm thầm cống hiến tài năng và tâm huyết để sáng tạo nên những giá trị tinh thần bền vững cho Tổ quốc.

Hành trình thống nhất và phát triển - ảnh 1
Các tác phẩm đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2023

Từ gian khó sau hòa bình đến đổi mới và hội nhập

Ngay sau ngày thống nhất, đất nước ta phải đối mặt với muôn vàn khó khăn của thời kỳ hậu chiến. Trong bối cảnh kinh tế bao cấp và cuộc sống còn thiếu thốn, văn nghệ sĩ cả nước vẫn nêu cao tinh thần lạc quan cách mạng, bền bỉ sáng tạo để phục vụ nhân dân.

Văn học xuất hiện các truyện ngắn và tiểu thuyết viết về hậu phương và vùng giải phóng với giọng văn dung dị, đậm chất sử thi. Những tác phẩm như Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi hay Hòn Đất của Anh Đức... khắc họa sâu sắc chủ nghĩa yêu nước và phẩm chất kiên trung của con người Việt Nam.

Thơ ca giai đoạn này tiếp tục ngân vang âm hưởng hào sảng của ngày toàn thắng - tiêu biểu như chùm thơ Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên và những vần thơ rực lửa trong tập Máu và Hoa của Tố Hữu...

Trên sân khấu kịch nói và cải lương, đề tài người lính và hậu phương thời chiến được tái hiện xúc động qua các vở kịch Đêm trắng,“Bài ca giữ nước hay cải lương Tiếng trống Mê Linh...

Điện ảnh cách mạng cũng ghi dấu ấn với những bộ phim đen trắng đầy sức mạnh thời đại như Cánh đồng hoang (1979, đạo diễn Hồng Sến) - đoạt giải lớn tại LHP Moskva, hay Mối tình đầu (1977, Hải Ninh) - bộ phim tình cảm đầu tiên của điện ảnh thống nhất.

Bên cạnh đó, mỹ thuật và nhiếp ảnh thời kỳ này tập trung phản ánh chân thực cuộc sống lao động, sinh hoạt của nhân dân sau chiến tranh. Những bức ký họa và tranh sơn dầu của họa sĩ Lê Lam, Phan Kế An về Chiến dịch Hồ Chí Minh, hay tranh cổ động xây dựng kinh tế mới đã trở thành dấu ấn thị giác sống động về một giai đoạn lịch sử hào hùng.

 Văn hóa là sản phẩm đặc biệt của con người, của dân tộc. Giữ gìn và phát huy sức mạnh của văn hóa là lĩnh vực mà bất cứ quốc gia nào cũng phải quan tâm bởi nhiệm vụ này gắn liền với sự phát triển xã hội, làm phong phú đời sống tinh thần của người dân và sự vận hành hiệu quả của nhà nước.

(Tổng Bí thư TÔ LÂM)

Nhiều nhà nhiếp ảnh như Lâm Hồng Long, Minh Trường... tiếp tục rong ruổi khắp mọi nẻo đường để ghi lại hình ảnh nhân dân hăng say lao động, hàn gắn vết thương chiến tranh.

Tất cả tạo nên bức tranh VHNT sau ngày thống nhất vừa mang âm hưởng sử thi, vừa đậm hơi thở đời thường, góp phần cổ vũ cả nước vượt lên gian khó.

Công cuộc đổi mới từ năm 1986 đã thổi luồng sinh khí mới vào đời sống VHNT. Cởi bỏ dần những ràng buộc khắt khe, đội ngũ văn nghệ sĩ mạnh dạn đổi mới tư duy sáng tác, khám phá các đề tài về thân phận con người trong xã hội thời hậu chiến và thời kỳ quá độ.

Văn học xuất hiện “những tiếng nói nhân bản và tự vấn đầy táo bạo”. Các tác phẩm văn xuôi tiêu biểu như tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Thời xa vắng của Lê Lựu, tập truyện ngắn Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp... đã gây tiếng vang mạnh mẽ bởi cái nhìn nghiêm cẩn, mang tính phê phán xây dựng đối với những tồn tại trong xã hội thời bao cấp.

Đặc biệt, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (1987) của Bảo Ninh với cách tiếp cận rất nhân văn đã chạm đến trái tim bạn đọc trong và ngoài nước, được dịch ra nhiều thứ tiếng và đoạt giải thưởng tại Mỹ.

Song hành với văn xuôi, thơ ca thời kỳ này có bước chuyển mình mạnh mẽ, hướng tới những tìm tòi đổi mới về thi pháp.

Thế hệ các nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy,... vừa kế thừa mạch cảm hứng cách mạng, vừa mạnh dạn bộc lộ cái “tôi” trữ tình với những khát khao đời thường.

Nhiều bài thơ giàu chất suy tưởng như Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm) hay Đò Lèn (Nguyễn Duy) đã trở nên gần gũi với công chúng.

Bước vào thế kỷ XXI, đất nước ta đẩy mạnh hội nhập quốc tế, nền kinh tế thị trường và bùng nổ công nghệ thông tin đã tác động sâu sắc đến đời sống văn hóa nghệ thuật.

Văn học đương đại trở nên phong phú với nhiều khuynh hướng và thể nghiệm mới. Những tác phẩm như Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (2008) của Nguyễn Nhật Ánh hay Sông (2011) của Nguyễn Ngọc Thuần đem lại luồng gió tươi mới, hấp dẫn độc giả trẻ với giọng văn giàu cảm xúc và sáng tạo.

Nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài giúp văn học Việt tiếp cận độc giả toàn cầu. Tuy số lượng tác phẩm tăng nhanh, nhưng giới phê bình cũng thẳng thắn chỉ ra thực trạng “số lượng nhiều nhưng ít tác phẩm đỉnh cao về tư tưởng và nghệ thuật”. Văn học cần thêm những kiệt tác tầm vóc phản ánh trọn vẹn hiện thực và khát vọng của thời đại mới.

Có thể nói, bức tranh VHNT Việt Nam giai đoạn hội nhập vừa rực rỡ sắc màu thành tựu, vừa đan xen không ít trăn trở, thách thức. Các thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực từ văn học, sân khấu, điện ảnh đến âm nhạc, mỹ thuật, nhiếp ảnh, múa, kiến trúc… đều cho thấy sức sáng tạo mãnh liệt và tâm huyết của văn nghệ sĩ trong nửa thế kỷ qua.

Hàng trăm tác giả, nghệ sĩ được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về VHNT. Nhiều tác phẩm VHNT Việt Nam đã bước ra thế giới, giành giải thưởng quốc tế danh giá, góp tiếng nói khẳng định bản sắc văn hóa Việt trong dòng chảy văn minh nhân loại.

Sứ mệnh VHNT trong công cuộc phát triển đất nước

Xuyên suốt 50 năm qua, VHNT Việt Nam luôn khẳng định vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, là nguồn sức mạnh mềm góp phần quan trọng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Văn hóa là sản phẩm đặc biệt của con người, của dân tộc. Giữ gìn và phát huy sức mạnh của văn hóa là lĩnh vực mà bất cứ quốc gia nào cũng phải quan tâm bởi nhiệm vụ này gắn liền với sự phát triển xã hội, làm phong phú đời sống tinh thần của người dân và sự vận hành hiệu quả của nhà nước”.

Thực tế cho thấy, ở đâu đời sống văn hóa tinh thần được chú trọng, ở đó xã hội phát triển bền vững và con người hạnh phúc hơn.

Ngay từ ngày đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nguyên tắc xây dựng văn hóa mới song song với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, bởi theo Người, “trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề phải chú ý: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội - cả bốn lĩnh vực phải coi trọng ngang nhau”.

Người căn dặn “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, nghĩa là văn hóa nghệ thuật phải dẫn dắt, nâng đỡ quốc dân trên con đường xây dựng tương lai tươi sáng. Lời dạy ấy đã và đang được kế tục qua các thời kỳ.

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, VHNT tiếp tục được Đảng và Nhà nước xác định là vũ khí tư tưởng sắc bén, là “ngọn đuốc soi đường” cho toàn xã hội. Các văn nghệ sĩ - với tư cách “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa” - có nhiệm vụ cao cả không chỉ sáng tạo ra cái đẹp mà còn bảo vệ cái đẹp, chống lại cái xấu, cái ác.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhắc nhở: Phải “xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa”, đồng thời “bảo vệ những giá trị chân - thiện - mỹ” trong đời sống.

Những năm qua, trước sự xâm lăng ồ ạt của các sản phẩm giải trí ngoại lai và thị hiếu tầm thường, đôi lúc văn nghệ có biểu hiện chững lại, thiếu nhiệt huyết so với giai đoạn trước.

Không ít tác phẩm chạy theo thị hiếu thương mại, sa sút về chất lượng tư tưởng, một số nghệ sĩ lệch lạc về nhận thức, phai nhạt lý tưởng, thậm chí vi phạm pháp luật.

Thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế đó, đội ngũ văn nghệ sĩ và các nhà quản lý văn hóa càng quyết tâm nỗ lực hơn để chấn hưng nền VHNT nước nhà.

Trong bối cảnh đất nước đang đứng trước ngưỡng cửa quan trọng để “bước vào kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, vươn mình”, VHNT được kỳ vọng sẽ có những đóng góp to lớn, xứng tầm với tầm vóc dân tộc.

Đảng, Nhà nước đã và đang đề ra nhiều định hướng chiến lược nhằm tạo điều kiện cho VHNT thăng hoa trong giai đoạn mới. Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng kêu gọi phải “phát huy mạnh mẽ vai tròcủa văn hóa trong phát triển đất nước”, coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho con người, cho phát triển bền vững.

Đặc biệt, vào cuối năm 2024, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có buổi gặp mặt văn nghệ sĩ và đề ra “3 nội dung và 3 trụ cột” định hướng cho VHNT Việt Nam trong 100 năm tới.

Trụ cột thứ nhất là xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ vững mạnh, vừa có tài năng, vừa có bản lĩnh chính trị kiên định, “gắn bó máu thịt” với nhân dân, với lý tưởng của Đảng. Văn nghệ sĩ cần bám sát thực tiễn sôi động của đất nước, “đập cùng nhịp đập trái tim của Tổ quốc”, dấn thân vào những đề tài lớn của thời đại, không ngại khó, ngại khổ.

Trụ cột thứ hai là tập trung nâng cao chất lượng tác phẩm: Các sáng tác phải đạt giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần lý tưởng nhân văn, phản ánh chân thật tâm hồn và khát vọng dân tộc.

Tổng Bí thư nhấn mạnh, nghệ thuật muốn trường tồn phải “giản dị, có hồn, có thần”, dễ đi vào lòng người nhưng đồng thời phải độc đáo, thuyết phục, vừa kế thừa truyền thống vừa phản ánh sinh động hiện thực đổi mới.

Trụ cột thứ ba là đổi mới công tác quản lý và cơ chế: Đảng và Nhà nước sẽ tiếp tục hoàn thiện các chính sách, pháp luật, dành nguồn lực thỏa đáng cho văn hóa nghệ thuật phát triển.

Trong đó chú trọng phát triển công nghiệp văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có cơ chế đãi ngộ tài năng, khuyến khích sáng tạo, đồng thời kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện suy thoái, lệch lạc về tư tưởng văn hóa.

Định hướng chiến lược đã rõ, cánh cửa tương lai đang rộng mở. Nhiệm vụ còn lại đặt trên vai những người làm văn hóa nghệ thuật là nỗ lực hành động, “cháy hết mình” vì những mục tiêu cao đẹp đó.

Nhìn lại chặng đường 50 năm qua, chúng ta trân trọng tự hào về những thành tựu to lớn của nền VHNT dân tộc. Bao thế hệ văn nghệ sĩ đã cống hiến tài năng, trí tuệ và cả xương máu để xây đắp nên một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

VHNT đã thực sự trở thành nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, góp phần nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc, “nuôi dưỡng lòng tự hào về Đảng và Tổ quốc quang vinh”, cổ vũ toàn dân đoàn kết vượt qua mọi thử thách.

Đảng, Nhà nước và nhân dân mãi ghi nhớ và biết ơn những đóng góp thầm lặng mà vĩ đại đó. Nhưng chặng đường phía trước vẫn còn dài, đòi hỏi sự chung sức đồng lòng và sáng tạo không ngừng nghỉ. Như Tổng Bí thư Tô Lâm từng trăn trở: “Chúng ta nghĩ gì khi một bộ phận người dân… còn đói văn hóa nghệ thuật?”.

Nửa thế kỷ đã qua chỉ là bước đệm cho những kỳ tích tương lai của văn hóa Việt Nam. Và văn hóa còn, thì hồn dân tộc mãi trường tồn, đất nước mãi vững bền trên con đường phát triển phồn vinh hạnh phúc.