Nhịp chuyển động mới trên những vùng chè Phú Thọ
VHO - Giai đoạn 2021 - 2025 là một chặng đường nhiều thử thách nhưng cũng đầy nỗ lực của ngành chè Phú Thọ.
Trước biến động của thị trường và tác động của dịch bệnh, cây chè vẫn kiên trì bám đất, giữ vai trò quan trọng trong đời sống sinh kế của người dân. Từ tái cơ cấu giống, phát triển vùng nguyên liệu đến mở rộng chế biến và xây dựng thương hiệu, một diện mạo mới của ngành chè đất Tổ đã dần hiện lên, đặt nền tảng để bước vào giai đoạn phát triển cao hơn.

Phục hồi sản xuất - mở rộng vùng trồng
Nhìn lại giai đoạn vừa qua, khó có thể quên những tác động sâu sắc của đại dịch Covid-19 đối với các vùng trồng. Thời điểm 2021 - 2022, khi tiêu thụ bị đình trệ và giá chè xuống thấp, nhiều hộ dân tại Đoan Hùng, Yên Lập, Phù Ninh, Hạ Hòa buộc phải chuyển đổi một phần diện tích sang các cây trồng khác. Hơn 2.239,5ha chè đã bị thu hẹp, kéo diện tích toàn tỉnh về mức 14.500ha.
Song sự suy giảm này chỉ mang tính tạm thời, bởi ngay sau khi thị trường phục hồi, người trồng chè bắt đầu ổn định trở lại sản xuất, đưa năng suất đạt mức 133 tạ/ha và sản lượng đạt 193.000 tấn, tăng 3.610,1 tấn so với năm 2020. Với kết quả ấy, Phú Thọ tiếp tục đứng thứ tư cả nước về diện tích và thứ ba về sản lượng chè.
Không chỉ dừng lại ở duy trì quy mô, tỉnh còn hình thành những vùng sản xuất chè tập trung, rõ nét hơn trước. Trên địa bàn 58 xã, phường thuộc tỉnh Phú Thọ và Hòa Bình cũ, 28 xã đã có diện tích trên 100ha, trong đó Minh Đài, Long Cốc, Yên Kỳ, Tây Cốc vượt mốc 1.000ha, tạo ra những tiểu vùng chuyên canh quy mô lớn. Nhờ có các vùng trồng liền khoảnh, địa phương thuận lợi hơn trong việc đưa cơ giới vào sản xuất, thu hút doanh nghiệp đầu tư và hình thành các chuỗi liên kết.
Bên cạnh vùng trồng của người dân, 8 doanh nghiệp sản xuất - chế biến chè cũng tạo ra 4.500ha nguyên liệu ổn định, trong đó Công ty chè Phú Đa và Công ty chè Phú Bền chiếm diện tích lớn nhất.
Các làng nghề và hợp tác xã vẫn giữ vai trò bổ trợ quan trọng, với 12 làng nghề và 15 hợp tác xã đang sản xuất trên diện tích gần 1.000ha. Nhờ sự tham gia đa dạng của nhiều chủ thể, bức tranh sản xuất chè trở nên linh hoạt, phong phú và có độ bền vững cao hơn.
Về cơ cấu giống, diện tích chè Trung Du trồng bằng hạt vẫn chiếm khoảng 30%, nhưng phần này đa số đã trên 30 năm tuổi, gần 2.500ha đã suy giảm năng suất và cần được thay thế. Tỉnh đã chủ động thực hiện trồng lại, trồng bổ sung 454,1ha, ưu tiên các giống mới có chất lượng cao như PH8, Kim Tuyên, Bát Tiên, VN15 hay TRI5.0. Nhờ vậy, tỷ lệ giống phục vụ chế biến chè xanh và sản phẩm chế biến sâu vượt mức 30%, góp phần nâng cao giá trị của nguyên liệu.
Phương thức sản xuất cũng có nhiều chuyển biến tích cực. 100% thành viên hợp tác xã và hộ nông dân nòng cốt ở vùng sản xuất tập trung được tập huấn kỹ thuật; 84 lớp tập huấn và 6 lớp TOT được tổ chức, cùng 15 mô hình ICM triển khai trên 51,5ha.
Tỷ lệ diện tích áp dụng IPM, ICM tăng lên 90,8%, trong khi diện tích đạt chuẩn VietGAP, RA, GlobalGAP... đạt 4.300ha. Điều này cho thấy nhận thức về sản xuất an toàn đã trở thành xu hướng chủ đạo, không còn mang tính phong trào như trước.
Một bước tiến quan trọng khác là việc thiết lập mã số vùng trồng. Với 162 mã số đã được cấp, tương ứng 4.045ha, Phú Thọ đang từng bước đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc. Đây là điều kiện then chốt để mở cửa vào các thị trường khó tính hơn trong tương lai.
Song hành với sản xuất, phát triển du lịch gắn với chè cũng đạt những kết quả đáng ghi nhận. Các đồi chè Long Cốc, Minh Đài, Thanh Thủy hay vùng chè shan tuyết tại Đức Nhàn, Pà Cò, Vân Sơn trở thành điểm đến hấp dẫn, được nhiều du khách đánh giá là đẹp và độc đáo bậc nhất Việt Nam. Các sản phẩm OCOP từ chè bát tiên, chè shan tuyết đến chè sương sớm Xuân Sơn đều trở thành cầu nối lan tỏa văn hóa trà đất Tổ đến du khách trong và ngoài nước.
Bước chuyển trong chế biến và thương mại chè
Nếu sản xuất có nhiều chuyển biến tích cực thì chế biến và thương mại chè lại cho thấy sự nỗ lực đáng kể nhằm gia tăng giá trị sản phẩm. Giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh thu hút thêm 4 dự án đầu tư mới, đưa tổng số doanh nghiệp chế biến chè lên 76 đơn vị. Sản lượng chế biến đạt trên 60.000 tấn/năm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.
Phần lớn doanh nghiệp vẫn tập trung chế biến chè đen bằng công nghệ OTĐ và CTC, xuất khẩu sang các thị trường truyền thống như Nga, Trung Đông, Trung Quốc hay Pakistan. Giá xuất khẩu thấp khiến hiệu quả kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng vùng nguyên liệu.
Tuy vậy, một nhóm doanh nghiệp đã mạnh dạn chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hướng chế biến sâu như Công ty chè Phú Đa, Công ty TNHH chè SSOE, Công ty chè Cozy... với các dòng sản phẩm như matcha, chè túi lọc, nước uống đóng chai hay hồng trà. Nhờ sự chuyển dịch này, tỷ lệ chè xanh và sản phẩm chế biến sâu đã tăng lên hơn 30% vào năm 2025, thể hiện sự thay đổi rõ rệt so với trước.
Trong xây dựng thương hiệu, việc hoàn thiện nhãn hiệu chứng nhận chè Phú Thọ là bước ngoặt quan trọng. Đến nay, 15 doanh nghiệp và hợp tác xã được cấp quyền sử dụng NHCN; 100% sản phẩm mang nhãn hiệu đều được truy xuất nguồn gốc và kiểm soát an toàn thực phẩm theo quy chế quản lý.
Cùng với đó, 38 sản phẩm OCOP được công nhận, trong đó có 2 sản phẩm đạt 5 sao là chè búp tím Thanh Ba và chè Đinh Cao cấp. Các điểm giới thiệu sản phẩm OCOP được duy trì, góp phần tạo đầu ra ổn định hơn cho doanh nghiệp và hợp tác xã.
Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng sản xuất ngoài vùng tập trung vẫn manh mún, thiếu liên kết; cơ sở hạ tầng vùng chè chưa đáp ứng yêu cầu; tình trạng tranh mua, tranh bán nguyên liệu vẫn xảy ra. Các vùng chè shan tuyết cổ thụ chưa được khai thác đúng mức để tạo ra sản phẩm đặc biệt hay các tuyến du lịch chuyên đề.
Dù đã có nhãn hiệu chứng nhận và nhiều sản phẩm OCOP chất lượng cao, thương hiệu “chè Phú Thọ” vẫn chưa có sức lan tỏa mạnh, chưa thực sự in dấu trong nhận thức người tiêu dùng như những thương hiệu chè lớn khác.
Có thể nói, bằng sự kiên trì của người dân và sự định hướng của chính quyền, cây chè đất Tổ đang bước những bước vững vàng để chuẩn bị cho giai đoạn 2026 - 2030 với mục tiêu cao hơn, phạm vi rộng hơn và kỳ vọng lớn hơn: trở thành một ngành hàng nông nghiệp mang giá trị kinh tế - văn hóa - du lịch đặc trưng của Phú Thọ.

RSS