“Quá trình tổ chức đào tạo giáo viên đang có rất nhiều vấn đề”
VH- “Nghiên cứu quy hoạch mạng lưới các trường sư phạm ở Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn 2035” là cuộc tọa đàm khoa học do Trường ĐH Sư phạm (ĐH Thái Nguyên) tổ chức tại TP.HCM vào cuối tuần qua đã cho thấy, nhu cầu về cải tổ hệ thống cơ sở đào tạo sư phạm đang ngày càng cấp bách, nhưng phát triển theo định hướng nào là vấn đề quan trọng cần tính đến.
PGS.TS Nguyễn Danh Nam, Trường ĐH Sư phạm Thái Nguyên, đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, mục tiêu chung của việc quy hoạch là hình thành mạng lưới các cơ sở giáo dục ĐH và đào tạo giáo viên với cơ cấu hợp lý, có quy mô, chất lượng đáp ứng nhu cầu người học và thị trường lao động. Việc quy hoạch đảm bảo tính khả thi, phân bố hợp lý; đẩy mạnh tự chủ ĐH; quy hoạch tinh gọn, giảm đầu mối, đẩy mạnh xã hội hóa, tăng tính kết nối trong hệ thống, giảm trường công lập…
Phát triển theo định hướng nghiên cứu hay ứng dụng?
Theo lộ trình thực hiện, từ năm 2018-2020 sẽ hoàn thiện hành lang pháp lý, đánh giá, rà soát các cơ sở giáo dục ĐH, xác định trọng điểm, lập kế hoạch đầu tư; từ 2021-2025: sáp nhập, hợp nhất, giải thể, đầu tư trọng điểm; giai đoạn từ 2026-2035: hoàn thiện cơ cấu mạng lưới, đẩy mạnh đầu tư trọng điểm.
Đại diện các trường sư phạm cho rằng việc quy hoạch mạng lưới các trường sư phạm là cần thiết, tuy nhiên cần quan tâm đến tính động, tính mở trong thực hiện. Theo PGS.TS Dương Thị Hồng Hiếu, Trưởng phòng Đào tạo, Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, trong bối cảnh hiện nay cần phải có chiến lược cụ thể trong quy hoạch sư phạm, nhưng quy hoạch như thế nào để có trọng tâm, đáp ứng yêu cầu thực tiễn là quan trọng. “Việc lựa chọn mô hình phát triển theo định hướng nghiên cứu hay ứng dụng cũng cần phải cân nhắc và nghiên cứu kỹ, không nên quá vội vã. Như Trường ĐH Sư phạm TP.HCM vừa có khả năng phát triển theo định hướng nghiên cứu nhưng đồng thời cũng rất quan tâm đến việc đào tạo để ứng dụng”, PGS.TS Dương Thị Hồng Hiếu cho hay.
Đồng quan điểm này, đại diện Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM cho rằng quy hoạch là cần thiết để quản lý cho đồng bộ, nhưng nên cân nhắc vì mỗi trường sư phạm có đặc thù khác nhau. Hiện nay các trường đào tạo dựa trên nhu cầu người học cho nên không nhất thiết phải tự ép buộc phải đào tạo theo mô hình nào mà nên tạo cơ chế mở cho các trường. Riêng bản thân Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM sẽ đào tạo theo cả 2 hướng nghiên cứu và ứng dụng.
Để đáp ứng nhu cầu đào tạo giáo viên trên địa bàn, theo các trường trong quy hoạch cần tính đến yếu tố vùng miền, nên để các trường tự chọn mô hình đào tạo phù hợp, có thể kết hợp hai mô hình nghiên cứu và ứng dụng nhưng phải đảm bảo chất lượng và có chế độ kiểm soát chặt chẽ. Mô hình đào tạo giáo viên cần tiếp cận xu hướng thế giới nhưng phải linh hoạt theo điều kiện đặc thù của từng trường.
Đào tạo giáo viên: Mạnh trường nào trường nấy làm
Một trong những thách thức của việc quy hoạch mạng lưới các trường sư phạm hiện nay là công tác đào tạo giáo viên còn nhiều bất cập. Theo PGS.TS Mỵ Giang Sơn, Trưởng phòng Đào tạo, Trường ĐH Sài Gòn, hạn chế và bất cập trong đào tạo giáo viên là chưa được quan tâm, thiếu kế hoạch trong tuyển sinh, trong đào tạo, không có khung chung, mạnh trường nào trường nấy làm, thiếu kế hoạch khi sinh viên tốt nghiệp ra trường nên dẫn đến sinh viên thất nghiệp, giáo viên không có việc làm gây bức xúc cho xã hội. “Tôi thấy rằng quá trình tổ chức đào tạo giáo viên đang có rất nhiều vấn đề, mạng lưới đào tạo từ mầm non đến phổ thông thiếu sự sắp xếp khoa học, cân đối”, PGS.TS Mỵ Giang Sơn thẳng thắn.
Đại diện Trường ĐH Sư phạm (ĐH Huế) cho rằng, đào tạo giáo viên đang gặp bất cập giữa cung và cầu. Thực tế sinh viên sư phạm ra trường khó khăn tìm kiếm việc làm đã dẫn đến học sinh giỏi không mặn mà với sư phạm, điểm tuyển sinh không cao và kết quả là chất lượng đào tạo phần lớn chưa đáp ứng yêu cầu. Mô hình quản lý các cơ sở đào tạo giáo viên hiện có nhiều cấp khác nhau: Bộ GD&ĐT, ĐH quốc gia, ĐH vùng, UBND các tỉnh, thành… Với mô hình quản lý này nên việc quản lý chỉ tiêu không sát thực tế.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Quế Anh, ĐH Quốc gia Hà Nội, khả năng kết nối giữa các cơ sở đào tạo sư phạm với các cơ sở giáo dục đào tạo khác còn hạn chế. Sau khi tốt nghiệp sinh viên chủ yếu vẫn phải tự tìm việc làm trong khi chưa có những hoạt động hỗ trợ từ các cơ sở đào tạo. Thực tế này dẫn đến đề xuất áp dụng mô hình của các trường quân đội, công an đối với trường sư phạm, hoặc cho phép các trường sư phạm lớn đào tạo theo nhu cầu, đặt hàng từ các địa phương… Những phương án này đã thực hiện nhiều năm trước nhưng do bất cập nên xóa bỏ. Nếu tiếp tục quay lại các chính sách như vậy có thể không làm cho tình hình được cải thiện mà trở thành cái vòng lẩn quẩn.
Liên quan đến việc bất cập giữa cung - cầu trong đào tạo giáo viên, đại diện nhóm nghiên cứu Trường ĐH Sư phạm Thái Nguyên cho biết, theo Bộ GD&ĐT, việc thống kê nhu cầu giáo viên từ các Sở GD&ĐT để làm căn cứ cho công tác đào tạo vừa qua là chưa đủ chính xác, chỉ mang tính cơ học nên các số liệu thống kê từ địa phương, Bộ không sử dụng được nhiều. Do đó hiện Bộ GD&ĐT đang giao cho hai nhóm nghiên cứu gồm Trường ĐH Sư phạm Hà Nội (dự báo về nhu cầu đào tạo giáo viên trong cả nước) và Trường ĐH Sư phạm TP.HCM (về nhu cầu học sinh từng cấp học) để các trường sư phạm xác định lại quy mô đào tạo cho hợp lý. Tại tọa đàm, nhóm nghiên cứu cũng đưa ra dự thảo bộ quy chuẩn trường sư phạm gồm 4 tiêu chuẩn và 16 tiêu chí; 4 tiêu chuẩn về tiềm lực, chất lượng đào tạo, kết quả nghiên cứu và quan hệ đối ngoại để lấy ý kiến chuyên gia.
THÙY TRANG