Ra mắt ấn phẩm “Tranh dân gian Nam Bộ“

TÙNG THƯ

VHO - NXB Tổng hợp TP.HCM giới thiệu tác phẩm “Tranh dân gian Nam Bộ” của nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình. Đây là lần đầu, tác giả công bố các tác phẩm sưu tập về tranh dân gian Nam bộ nhằm lưu dấu thành tựu nghệ thuật hội họa truyền thống của các thế hệ cha ông ở vùng đất phương Nam.

Ra mắt ấn phẩm “Tranh dân gian Nam Bộ“ - ảnh 1

Sách dày 208 trang với 5 hình thức thể hiện chính của dòng tranh dân gian Nam Bộ gồm: Tranh mộc bản, tranh minh họa vẽ trên giấy, tranh cuộn Phật giáo, tranh kiếng, tranh gói và một số phụ lục hình ảnh.

Tranh dân gian Nam bộ vốn chưa được nhiều người nghiên cứu, từ hơn chục năm qua, Huỳnh Thanh Bình bén duyên đến với nghệ thuật tranh dân gian Nam Bộ và sưu tập các mảng tranh thuộc nhiều thể loại khác nhau của dòng tranh này.

Ban đầu, tác giả chỉ đơn giản xem đây là sở thích sưu tập để thỏa lòng đam mê nghiên cứu về nghệ thuật dân gian và truyền thống ở vùng đất mới phương Nam. Tác giả quyết định tập hợp và sắp xếp chúng thành những một sưu tập cụ thể tạm coi là chỉnh chu để ra mắt bạn đọc.

Tác phẩm tập hợp hình ảnh về hình tướng chư vị thần linh, ma quỷ, chư Phật, Bồ Tát cùng hình tướng của các hạng người sĩ - nông - công - thương cùng những hình thái lao động, sinh hoạt của họ trong bối cảnh tự nhiên và xã hội xưa cũ. Bên cạnh đó là những cảnh quan sông núi, ao hồ, đồng bãi cùng các cảnh làng thôn, cầu đường, ghe thuyền, xe cộ…

Những bức tranh dân gian đem lại cho chúng ta có được một cảm thức cụ thể hơn thông qua hình ảnh tả thực và hình ảnh ý tưởng sáng tạo bắt nguồn từ nếp tưởng tượng và các tín lý đã bắt rễ trong đời sống tâm linh.

Đầu tiên là Tranh mộc bản: Loại tranh này ra đời đáp ứng nhu cầu thực hành tín ngưỡng trong các lễ tiết thường niên và những lễ nghi cầu cúng không định kỳ. Bùa nêu – trấn trạch cũng được gọi là Linh phù trấn trạch, tục gọi là “Bùa nêu Ông Cọp”, cũng như bộ tranh cúng Ông Táo, theo tập tục mọi nhà đều sử dụng trong dịp Tết Nguyên đán.

Tương tự, bộ tranh đồ thế cũng được sử dụng trong lễ cúng Hành khiển – Hành binh trong dịp Tết và trong lễ nhương căn đổi đốt cho trẻ con dưới 12 tuổi, cúng Bà Thượng Động, bộ tranh cúng Đàng dưới … Loại tranh mộc bản in trong kinh sách nhà Phật còn lưu hành ở một số chùa, không thuộc nguồn gốc bản xứ, hiện nay, tranh in mộc bản thủ công đã được thay thế bởi các bộ tranh in công nghiệp.

Ra mắt ấn phẩm “Tranh dân gian Nam Bộ“ - ảnh 2
Tác giả Huỳnh Thanh Bình

Tiếp theo là Tranh minh họa vẽ trên giấy: Gồm bộ tranh xăm hình (dùng để bói xăm mà “lời bàn” là những bức tranh minh họa về các cảnh đời may rủi, hanh thông phát đạt hay hoạn nạn trắc trở không chừng; gồm 100 bức); và bộ tranh minh họa sách Cao Ly đồ hình (tập sách xem duyên phận và tương lai của những cặp đôi trai gái/vợ chồng dựa trên sự kết hợp của can và chi của họ).

So với loại tranh mộc bản nói trên có niên đại cổ xưa hơn, loại tranh này có lẽ ra đời vào những thập niên đầu của thế kỷ 20 bởi vật liệu là giấy báo.

Với Tranh cuộn Phật giáo (đây là loại tranh vẽ trên giấy mô tả các đối tượng được lễ bái trong các nghi lễ của Phật giáo dùng để thiết lập các đàn lễ khi tiến hành các nghi lễ thuộc khoa nghi nhà Phật, cả nghi lễ tại gia của tín đồ lẫn các nghi lễ lớn tổ chức nơi tự viện).

Hoạt động này gọi là Ứng phú khởi đi từ giữa thế kỷ 19, loại tranh cuộn Phật giáo có lẽ cũng khởi phát sau mốc thời gian đó. Theo thời gian, loại tranh vẽ trên giấy “bổi” dễ hư hỏng và được thay thế bằng những bức vẽ mới, đến nay những tranh vẽ tác giả sưu tầm được có niên đại cổ nhất từ 1940 - 1950 - 1960. Hiện nay, rất hiếm chùa còn bảo quản loại tranh cuộn truyền thống và được thay thế bằng tranh in (canvas, hiflex).

Bên cạnh đó là Tranh kiếng: Đầu thế kỷ 20, khởi đi từ Chợ Lớn, Lái Thiêu, tranh kiếng đã lan tỏa khắp Nam Bộ, bao gồm cộng đồng người Việt – Hoa – Khmer như tranh kiếng Chợ Lớn, tranh kiếng Lái Thiêu, tranh kiếng Mỹ Tho, tranh kiếng Gò Công, tranh kiếng Chợ Trạm, tranh kiếng Chợ Mới (An Giang), tranh kiếng Tây Ninh, tranh kiếng Khmer.

Cuối cùng là Tranh gói: là loại tranh đắp nổi bằng vải, một dạng phù điêu thấp xuất phát từ Sa Đéc, hồi năm 1948, rồi lan rộng ra các địa phương khác. Thời đó được gọi là tranh gói hoặc tranh nổi là tranh chân dung, rồi dần dần mở rộng ra các loại tranh thần, Phật, Bồ Tát và sau đó là tranh cảnh vật biểu đạt ý nghĩa chúc tụng cát tường như ý, điển tích có nội dung khuyến giáo như truyện thơ Thoại Khanh - Châu Tuấn hay Phạm Công - Cúc Hoa.

Tóm lại, các sưu tập tranh dân gian Nam Bộ chủ yếu là tranh thờ, là vật phẩm cúng tế hay trần thiết các đàn lễ thực hành khoa nghi của nhà Phật và minh họa các văn bản chiêm đoán vận mệnh mà ngày nay chúng được liệt vào mê tín.

Chính vì vậy, chúng khó được coi là tác phẩm mỹ thuật theo đúng nghĩa của từ này, song đây là những di vật của thành tựu hội họa của một thời quá vãng mà đến nay, ngoài chúng ra thì thế hệ hậu bối chúng ta không có thể truy tầm được một dấu tích nào khác của cái gọi là thành tựu nghệ thuật hội họa của các thế hệ cha ông ở vùng đất phương Nam này.

Huỳnh Thanh Bình (sinh năm 1985), hiện công tác tại Bảo tàng TP.HCM.

Các tác phẩm đã xuất bản: Tranh kiếng Nam Bộ (2013); Biểu tượng thần thoại về chư thiên và linh vật Phật giáo (2018, Tái bản 2024); Tranh tường Khmer Nam Bộ (2020); Quy pháp đồ tượng Hindu và Phật giáo Ấn Độ (2021); Tranh dân gian Nam Bộ (2024).

Đã công bố trên 100 bài viết về văn hóa thế giới, mỹ thuật Phật giáo, mỹ thuật Việt Nam và văn hóa dân gian trên Nguyệt San Giác ngộ, Kiến thức ngày nay, Kiến trúc nhà đẹp, tạp chí Cẩm Thành…