Vấn đề vẫn là chất lượng…

MINH TUỆ

VHO - Sau 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trong nhiều thành tựu, ta cũng cần lưu ý thêm về biểu đồ phát triển dân số trên toàn quốc. Thời điểm 1975, toàn quốc có “50 triệu trái tim”. Sau 50 năm, nước ta có thêm 50 triệu, gấp đôi, lên trên 100 triệu “trái tim”. Nghĩa là trung bình 50 năm qua, mỗi năm nước ta tăng thêm 1 triệu người

 Mặt tích cực là dân số đông sẽ tạo ra lực lượng lao động dồi dào để thúc đẩy kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng. Nhưng mặt khác, dân số đông, lại tăng nhanh sẽ gây áp lực cho chính sự phát triển kinh tế, xã hội, cho môi trường, nhất là trong hoàn cảnh nước ta mới thoát khỏi các cuộc chiến tranh ác liệt, xuất phát điểm kinh tế vốn rất thấp.

Do vậy trước đây các hoạch định về chính sách dân số đều theo hướng giảm tỷ suất sinh, cũng có nghĩa kìm hãm tăng dân số, nêu cao khẩu hiệu “Mỗi gia đình chỉ nên có một đến hai con”. 

Thực tế tập quán khiến khẩu hiệu như vậy càng hợp lý. Xưa việc sinh đẻ tự nhiên, không tính toán, nên phụ nữ có người sinh hàng chục người con, còn năm bảy người con là bình thường, không cần phải so đo tính toán. Khi chính sách dân số được ban hành và vận động, không phải ai cũng đồng thuận, thậm chí có người còn đặt vè chế giễu, có người tuyên bố “đẻ cho hết trứng” mới thôi.

Công tác tuyên truyền không vì thế mà dừng. Trong giới âm nhạc xuất hiện bài ca “Sao em nỡ vội lấy chồng” nói về tình trạng lấy chồng sớm, sinh con sớm, phổ biến khắp xã hội. Trong các hội thi tuyên truyền cổ động, thì đề tài kế hoạch hóa gia đình luôn được chú ý. 

Tôi nhớ có một đội tuyên truyền ở miền Bắc cải biên ca dao thành bài hát thế này: Gái một con trông mòn con mắt, Gái hai con vú quặt sau lưng… Thực tế, cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình khá thành công. Hãy cứ tưởng tượng, với tình trạng kinh tế những năm chín mươi trở về trước còn đầy rẫy khó khăn yếu kém, mà dân số bùng nổ, thì đất nước sẽ phải phát triển ra sao?

Với số dân phát triển thực tế trung bình 1 triệu người mỗi năm, đã là một áp lực rất lớn. Khắp nơi người ta phải moi móc mọi ngóc ngách, kể cả đào bới trong rừng, vơ vét dưới biển để sinh sống. May là đất nước đã từng bước thoát khỏi khủng hoảng và phát triển, từng bước vượt qua cái “đốt” đói nghèo. 

Nhưng qua thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, tỷ suất sinh bỗng có hiện tượng “quay đầu” giảm, báo động đầu tiên là ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM. Ai nấy hơi “giật mình” vì quán tính xưa nay là dân số luôn tăng theo thời gian. Và thời khắc “dân số vàng” để phát triển kinh tế, xã hội có thể qua đi. Nhưng nghĩ lại nó như một quy luật, đã diễn ra từ lâu ở các nước phát triển. Bây giờ, chính sách dân số lại phải quay sang khuyến sinh. Điều này hoàn toàn đúng và càng phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền. 

Tuy nhiên, dân số luôn gắn với vấn đề gia đình, do vậy ta thấy công tác gia đình ngày càng quan trọng. Gia đình là tế bào của xã hội. Văn hóa gia đình còn có những ảnh hưởng quan trọng trong mỗi cá thể, hình thành nhân cách con người.

Công tác gia đình trong điều kiện “trăm triệu trái tim” với tác động nhiều chiều thuận nghịch, bên trong và bên ngoài, chuyển đổi nhận thức, cơ cấu, quy mô gia đình, vấn đề quốc tịch, khiến vô vàn công việc phải nghiên cứu thật kỹ lưỡng. 

Vấn đề cốt lõi ở đây không chỉ là số lượng dân số, mà còn là chất lượng dân số. Chất lượng dân số bao gồm việc phát triển thể chất và tinh thần. Nói cách khác, trong khi số dân phát triển trăm triệu, công tác văn hóa gia đình càng cần sự quan tâm lớn hơn, nghiên cứu kỹ lưỡng các khía cạnh về gia đình và có những quyết sách hiệu quả.

Các địa phương cũng nên theo dõi kỹ lưỡng tình hình phát triển dân số, tình hình văn hóa gia đình trên địa bàn của mình, để có những điều chỉnh phù hợp.