Rà soát thực trạng trường lớp ở khu vực có nguy cơ sạt lở đất

ANH HUY

VHO - Bộ GD&ĐT vừa có công văn hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2024-2025 đối với giáo dục dân tộc. Bộ yêu cầu rà soát, đánh giá thực trạng cơ sở trường lớp ở khu vực có nguy cơ sạt lở đất, gần sông suối.

Rà soát thực trạng trường lớp ở khu vực có nguy cơ sạt lở đất - ảnh 1
Học sinh Trường Tiểu học Thạnh Bắc A, ấp Suối Mây, xã Thạnh Bắc, huyện Tân Biên, Tây Ninh, nơi đây có khoảng 37% học sinh DTTS

Bộ GD&ĐT đề nghị trong năm học 2024-2025, các đơn vị tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết, chủ trương của Đảng, Quốc hội và Nhà nước về đổi mới và phát triển giáo dục vùng đồng bào DTTS&MN.

Rà soát, đánh giá các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục để ưu tiên nguồn lực đầu tư kiên cố hóa trường lớp, thiết bị dạy học cho cơ sở giáo dục ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; thực hiện tốt chính sách đối với người dạy, người học, cơ sở giáo dục vùng đồng bào DTTS&MN.

Bộ GD&ĐT nhấn mạnh, các đơn vị cần tập trung triển khai hiệu quả Chương trình giáo dục phổ thông 2018 phù hợp với vùng đồng bào; tăng cường các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt trong các trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT), trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) và các trường dự bị đại học.

Chú trọng bảo tồn và phát triển tiếng nói, chữ viết của DTTS; quan tâm giáo dục văn hóa dân tộc cho học sinh vùng đồng bào DTTS&MN.

Bộ yêu cầu rà soát, sắp xếp mạng lưới trường lớp, đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục vùng đồng bào DTTS&MN. 

Ưu tiên quan tâm rà soát, đánh giá thực trạng cơ sở trường lớp, đặc biệt chú ý các trường ở khu vực có nguy cơ sạt lở đất, gần sông suối để có kế hoạch bổ sung, hoàn thiện các điều kiện nhằm đảm bảo an toàn cho học sinh và trẻ em...

Đối với việc thực hiện chế độ, chính sách phát triển giáo dục vùng đồng bào DTTS&MN, Bộ yêu cầu tiếp tục thực hiện đúng, đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với người dạy, người học và các cơ sở giáo dục ở vùng đồng bào DTTS&MN, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Thực hiện nghiêm túc chế độ cử tuyển đối với HSSV DTTS, đảm bảo cử tuyển đúng đối tượng, đúng tiêu chuẩn, khách quan, công bằng, công khai, minh bạch.

Bên cạnh đó, tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức cho học sinh về chủ trương, đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, về bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam. Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật cho học sinh.

Bảo đảm các điều kiện ăn, ở, sinh hoạt và học tập cho trẻ em, học sinh nội trú, bán trú; an ninh, an toàn trường học, phòng tránh nạn tảo hôn, các hủ tục lạc hậu và duy trì sĩ số trẻ em, học sinh trong các cơ sở giáo dục ở vùng đồng bào, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Thực hiện việc dạy tiếng dân tộc thiểu số trong trường phổ thông, cụ thể, dạy học các tiếng Bahnar, Chăm, Êđê, Khmer, Jrai, Mnông, Mông, Thái lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 4 theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT.

Ngoài 8 chương trình, sách giáo khoa tiếng DTTS đã ban hành, đối với các địa phương có nhiều người DTTS sinh sống, các Sở GD&ĐT chủ động tham mưu UBND tỉnh xây dựng kế hoạch, đề án dạy học tiếng DTTS, bảo đảm các điều kiện tổ chức dạy học và thực hiện thủ tục đưa tiếng DTTS có đủ điều kiện trên địa bàn tỉnh vào dạy học trong trường phổ thông.

Các địa phương chủ động rà soát đội ngũ giáo viên dạy tiếng DTTS, phối hợp với các trường đại học có phương án thực hiện đào tạo, bồi dưỡng giáo viên đáp ứng yêu cầu dạy học tiếng DTTS.

Đồng thời, dạy tiếng DTTS cho CBCVC, lực lượng vũ trang công tác ở vùng DTTS&MN. Tăng cường công tác quản lý giáo dục dân tộc, truyền thông, thông tin về giáo dục dân tộc…