Những người “giữ lửa” tại ngôi Làng 54 dân tộc

TRẦN HUẤN

VHO - Không giống với mô hình bảo tàng truyền thống tĩnh lặng, Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam lựa chọn con đường “bảo tồn sống”. Ở đó, những giá trị văn hóa không chỉ được trưng bày mà được thực hành – không gian văn hóa không còn là nơi để "xem", mà là nơi để "sống cùng".

Giữa bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc không còn là một sứ mệnh văn hóa thuần túy, mà đã trở thành chiến lược then chốt trong xây dựng nền tảng phát triển bền vững. Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (tọa lạc tại Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) chính là biểu tượng sống động cho chiến lược ấy: một thiết chế văn hóa đặc thù cấp quốc gia, nơi hội tụ, giao thoa và lan tỏa những tinh hoa văn hóa đặc sắc của 54 dân tộc anh em trên dải đất hình chữ S.

Những người “giữ lửa” tại ngôi Làng 54 dân tộc - ảnh 1
Đại diện 16 nhóm nghệ nhân đồng bào dân tộc nghe giới thiệu về nét độc đáo, huyền bí chiếc cầu thang nhà dài của người Ê Đê

Không giống với mô hình bảo tàng truyền thống tĩnh lặng, Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam lựa chọn con đường “bảo tồn sống”. Ở đó, những giá trị văn hóa không chỉ được trưng bày mà được thực hành – không gian văn hóa không còn là nơi để "xem", mà là nơi để "sống cùng".

Những người “giữ lửa” tại ngôi Làng 54 dân tộc - ảnh 2
Nghệ nhân Ưu tú Y Sinh (dân tộc Xơ Đăng, Kon Tum), người đã gắn bó hơn 7 năm với Làng. Không chỉ biểu diễn đàn Klông pút mỗi ngày, bà còn tự học và chơi điêu luyện đàn T’rưng, truyền dạy dân ca, dân vũ cho thế hệ trẻ

Minh chứng rõ nét là mô hình luân phiên đưa đồng bào các dân tộc về “sinh hoạt” tại Làng. 16 cộng đồng dân tộc như Tày, Nùng, Dao, Mông, Thái, Ê Đê, Khmer, Xơ Đăng… đã thường xuyên tham gia tái hiện các nghi lễ truyền thống như Lễ Gầu Tào của người Mông, Lễ mừng lúa mới của người Gia Rai, Tết Chôl Chnăm Thmây của người Khmer hay Lễ cấp sắc của người Dao đỏ. Những hoạt động này không chỉ giúp du khách "chạm" đến bản sắc văn hóa thông qua trải nghiệm thực tế, mà còn nuôi dưỡng sinh khí văn hóa ngay chính trong cộng đồng.

Những người “giữ lửa” tại ngôi Làng 54 dân tộc - ảnh 3
Nghệ nhân Ưu tú Lâm Thị Hương (dân tộc Khmer) không chỉ thể hiện vai trò người gìn giữ múa Rôbăm, mà còn thiết kế các hoạt động tương tác như hướng dẫn du khách học múa, tìm hiểu ẩm thực Nam Bộ

Nếu di sản vật thể là kiến trúc, hiện vật thì nghệ nhân chính là “kho tri thức sống” của di sản phi vật thể – nơi lưu giữ, tái hiện và truyền lửa. Điển hình như Nghệ nhân Ưu tú Y Sinh (dân tộc Xơ Đăng, Kon Tum), người đã gắn bó hơn 7 năm với Làng. Không chỉ biểu diễn đàn Klông pút mỗi ngày, bà còn tự học và chơi điêu luyện đàn T’rưng, truyền dạy dân ca, dân vũ cho thế hệ trẻ.

Tương tự, Nghệ nhân Ưu tú Lâm Thị Hương (dân tộc Khmer) không chỉ thể hiện vai trò người gìn giữ múa Rôbăm, mà còn thiết kế các hoạt động tương tác như hướng dẫn du khách học múa, tìm hiểu ẩm thực Nam Bộ… Đó không còn là vai trò “biểu diễn” đơn thuần, mà là sự chuyển mình thành những “nhà giáo dục cộng đồng” – cầu nối giữa quá khứ và hiện tại.

Những người “giữ lửa” tại ngôi Làng 54 dân tộc - ảnh 4
16 nhóm nghệ nhân đồng bào dân tộc đang sinh sống tại Làng chung một vòng Xoang gắn kết cộng đồng

Từ trưng bày tĩnh sang trải nghiệm động: Giáo dục cảm xúc và bảo tồn tương tác

Một bước ngoặt chiến lược của Làng là chuyển từ mô hình trưng bày thụ động sang tổ chức các hoạt động trải nghiệm mang tính giáo dục cảm xúc – một xu hướng được UNESCO đánh giá cao trong bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể. Việc để du khách cùng nghệ nhân Lò Thị Tóm (dân tộc Thái) dệt thổ cẩm, hòa mình vào điệu múa Xòe Tây Bắc, hay học đánh cồng chiêng Tây Nguyên... là một hình thức “giáo dục trực giác”, giúp văn hóa thấm sâu qua xúc giác, thị giác và cảm nhận tinh thần.

Những người “giữ lửa” tại ngôi Làng 54 dân tộc - ảnh 5
Nghệ nhân Lò Thị Tóm (dân tộc Thái) đang hướng dẫn các nghệ nhân dệt thổ cẩm

Những không gian trải nghiệm như vậy biến Làng trở thành một mô hình kiểu mẫu về bảo tồn đi liền với du lịch có trách nhiệm, trở thành sản phẩm trí tuệ đặc thù của ngành công nghiệp không khói.

Trong bối cảnh chuyển đổi số là xu thế không thể đảo ngược, Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam đã và đang ứng dụng công nghệ để bảo tồn, tái hiện và quảng bá di sản. Tuy nhiên, như các chuyên gia nhận định, số hóa chỉ là phương tiện. Cốt lõi là khoa học hóa bảo tồn: đặt hoạt động vào khung nghiên cứu bài bản, phối hợp giữa nghệ nhân, giới học thuật và chuyên gia công nghệ. Làng trở thành nơi giao thoa giữa thực hành dân gian và tri thức khoa học, giữa truyền thống và hiện đại.

Những người “giữ lửa” tại ngôi Làng 54 dân tộc - ảnh 6
Nghệ nhân Đinh Thị Xam (dân tộc Ba Na) đang say xưa biểu diễn cồng chiêng

Khẳng định bản sắc văn hóa – nâng cao sức cạnh tranh quốc gia

Những sự kiện quy mô quốc gia như “Ngày hội Sắc Xuân”, “Tuần lễ Đại đoàn kết”, hay các chương trình giao lưu văn hóa quốc tế tại Làng không chỉ làm sống dậy các giá trị truyền thống, mà còn góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng, giáo dục lòng tự hào dân tộc, tạo động lực phát triển du lịch văn hóa bền vững.

Những người “giữ lửa” tại ngôi Làng 54 dân tộc - ảnh 7
Nghệ nhân Giàng Thị Dính (dân tộc Mông) đang hòa chung điệu múa cùng đồng bào các dân tộc
Những người “giữ lửa” tại ngôi Làng 54 dân tộc - ảnh 8
Các nghệ nhân đồng bào các dân tộc đang sing sống tại Làng tham gia Lễ hội Khai Hạ của người Mường thể hiện tinh thần đoàn kết gắn bó cộng đồng
Những người “giữ lửa” tại ngôi Làng 54 dân tộc - ảnh 9
Du khách được mời chung vui với Lễ hội Cúng thần rừng, cúng thần núi của dân tộc Cơ Tu, cùng hòa theo tiếng chiêng, nhịp trống, vũ điệu Tân tung da dã nhịp nhàng uyển chuyển…
Những người “giữ lửa” tại ngôi Làng 54 dân tộc - ảnh 10
Du khách nước ngoài thích thú vớ trải nghiệm dệt thổ câm của người Mông tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam

Trong dòng chảy hội nhập, Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam không chỉ là nơi lưu giữ di sản, mà là nơi tái sinh văn hóa truyền thống – nơi ký ức dân tộc được kể lại bằng tiếng đàn Klông pút, bằng điệu xoang Tây Nguyên, bằng sắc phục rực rỡ của người Dao, người Hà Nhì.

Đó là biểu tượng của tinh thần đoàn kết dân tộc, là điểm tựa bản sắc trong thời đại số, là nhịp cầu nối quá khứ – hiện tại – tương lai. Trong chiến lược phát triển văn hóa trở thành trụ cột của du lịch bền vững, Làng chính là minh chứng rõ nét nhất cho cách mà Việt Nam dìn giữ "hồn cốt" dân tộc – không bằng cách cất giữ trong tủ kính, mà bằng cách để văn hóa ấy được sống, được cảm, và được sẻ chia.