Tầm nhìn vượt thời gian của Chủ tịch Hồ Chí Minh
VHO - Là một lãnh tụ thiên tài, là người có mẫn cảm chính trị hơn người, là nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp, Hồ Chí Minh ngay từ khi quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, đã bộc lộ tầm nhìn sắc sảo, vượt trước thời gian.
Việc Người lựa chọn hướng đi, tìm gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, lựa chọn mô hình nhà nước, sáng lập Đảng và lãnh đạo Đảng đấu tranh giành chính quyền, sáng lập Mặt trận, sáng lập quân đội, sáng lập nước đã khẳng định tầm nhìn của Người ở chặng đường đầu tiên của cách mạng Việt Nam.

Trân trọng lịch sử dân tộc để đoàn kết chiến đấu và chiến thắng
Ngày 28.1.1941, Bác trở về Tổ quốc để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong những ngày mới về ở biên giới Việt - Trung, Bác vẫn dành thời gian để dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Nga, làm tài liệu huấn luyện cán bộ, cũng là để đúc rút những bài học kinh nghiệm quý báu cho cách mạng Việt Nam.
Cũng chính trong những ngày này, đầu tháng 2.1942, Bác viết bài Nên học sử ta (bằng văn xuôi). Trong tháng 2.1942, Việt Minh Tuyên truyền Bộ xuất bản cuốn Lịch sử nước ta theo thể lục bát với 208 câu thơ do Bác viết. Cả hai tác phẩm đều được mở đầu bằng hai câu thơ lục bát “Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” nhằm động viên các tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống yêu nước, nâng cao lòng tự hào dân tộc và tinh thần đoàn kết, để chiến thắng ngoại xâm.
Bác mong muốn dân ta phải biết lịch sử một cách tường tận, rõ ràng, cụ thể; để rồi từ đó biết nhân lên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Bác chú trọng lịch sử, vì “Sử ta dạy cho bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi dưới ngọn cờ Việt Minh để đánh đuổi Tây - Nhật, khôi phục lại độc lập, tự do”.
Tự do, độc lập là quyền trời cho của mỗi dân tộc
Ngày mùng 2.9.1945, khi đọc Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp và đi tới khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”, để từ đó khẳng định: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Từ “những lẽ phải không ai chối cãi được” này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân Việt Nam thề mang tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập. Bởi vì, như sau này Người đã khẳng định: “Tự do độc lập là quyền trời cho của mỗi dân tộc... Hễ một dân tộc đã đứng lên kiên quyết tranh đấu cho Tổ quốc họ, thì không ai, không lực lượng gì chiến thắng được họ”.
Vận hành nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa
Đây là thuật ngữ chúng ta dùng hiện nay, thuật ngữ này đồng nghĩa với điều Chủ tịch Hồ Chí Minh nói trong loạt bài viết về thường thức chính trị năm 1954 về kinh tế trong thời kỳ chế độ dân chủ mới, có năm loại: Kinh tế quốc doanh, các hợp tác xã, kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ, tư bản của tư nhân, tư bản của Nhà nước. Trong năm loại ấy, kinh tế quốc doanh là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản.
Trong chế độ dân chủ mới, tư tưởng của giai cấp công nhân (tư tưởng Mác-Lênin) là tư tưởng lãnh đạo.
Người cũng khẳng định vai trò của Đảng Cộng sản cầm quyền: Đảng kiên quyết lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện dân chủ mới và tiến dần đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản).
Việt Nam muốn là bạn với các nước dân chủ
Trong quan hệ quốc tế, Hồ Chí Minh xác định chính sách đối ngoại của Việt Nam là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Trong hoàn cảnh quốc tế phức tạp, biến chuyển khó lường, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam theo đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo, phát huy nội lực của toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, để giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Ngày 14.1.1946, thay mặt nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện yêu cầu các nước lớn và Liên Hợp Quốc công nhận nền độc lập và kết nạp Việt Nam vào Liên Hợp Quốc.
Người khẳng định lập trường của Chính phủ Việt Nam: “Đối với các nước dân chủ, Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế. c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên Hợp Quốc…”.
Với tinh thần chủ động, trong 2 năm 1945-1946, ngay sau Lễ Quốc khánh 2.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã liên tiếp gửi thư, điện cho Tổng thống và Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ (14 văn bản) để tìm kiếm sự ủng hộ của Mỹ đối với nền độc lập non trẻ của Việt Nam và xây dựng quan hệ hữu nghị giữa hai nước.
Đổi mới để đưa đất nước phát triển
Nếu đến Đại hội VI, năm 1986, Đảng ta mới khởi xướng đổi mới, thì từ năm 1968, trong Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về đổi mới. Di chúc phác thảo những vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước. Theo Người, đổi mới là một tất yếu để phát triển; đổi mới là một cuộc đấu tranh bền bỉ, một quá trình xây dựng gian khổ, “là một công việc rất to lớn, nặng nề và phức tạp”, là “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”.
Người yêu cầu, Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Người căn dặn Đảng cầm quyền phải đặc biệt chú trọng phát huy khả năng sáng tạo của nhân dân, “động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.
Ước vọng sánh vai với các cường quốc năm châu
Ngày 15.9.1945, trong “Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Sau 80 năm giời nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước khác trên hoàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.
80 năm trước đây, trong hoàn cảnh nhiều lúc vận mệnh quốc gia như ngàn cân treo trên sợi tóc, một lúc vừa phải đối phó với “thù trong, giặc ngoài”, khốn khó trăm bề trước giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, lãnh tụ Hồ Chí Minh vẫn lạc quan nghĩ tới lúc dân tộc ta “sánh vai với các cường quốc 5 châu”, thì nay, khi thế và lực nước ta lớn gấp hàng trăm lần so với khi đó, chúng ta có cơ sở để hoàn toàn tin chắc rằng trên nền tảng kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, tiến bộ xã hội hiện có, chúng ta hoàn toàn vững tin bước vào kỷ nguyên mới, hướng tới những mục tiêu to lớn hơn.
Tất cả điều đó là có thể, vì chúng ta đang tiến bước dưới tầm nhìn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra từ 80 năm trước đây. Nhất định chúng ta sẽ thực hiện được khát vọng xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ hằng mong mỏi và cũng là thông điệp được người đứng đầu Đảng ta, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhiều lần nhắc tới.