Nhớ bánh bột sắn của mẹ
VHO- Mùi ngậy của bột nếp, ngọt lịm của mật mía, quyện dẻo, hòa tan trong miệng. Cả nhà ngồi quây quần bên nhau trên mảnh chiếu cũ dưới nền đất. Vừa ăn vừa nói chuyện cách làm bánh dùng bằng bột sắn mỗi khi Tết đến Xuân về. Bánh dùng làm bằng bột sắn giờ chỉ là hoài niệm, nhưng mỗi lần nhắc nhớ, khóe mắt cay cay.
Món bánh trùng mật xứ Thanh
Quê tôi xã Nga Tân, huyện Nga Sơn, miền đất phù sa nước lợ của tỉnh Thanh sống bằng nghề chiếu cói. Khác với các xã đồng bái Nga Trung, Nga Hưng trồng khoai, cấy lúa, người dân Nga Tân được coi như “gạo chợ nước sông”, “ăn đong từng bữa”. 100% người dân quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” làm quần quật cả năm vẫn không đủ ăn, sống chết nhờ cậy vào cây cói. Bởi thế mỗi năm Tết đến Xuân về, kiếm được cân thịt mỡ kho ăn với dưa hành, cơm gạo trắng đã là “xa xỉ”, và chỉ gia đình khá giả mới có.
Để có cái Tết tươm tất, ngay từ tháng 10 âm lịch, mẹ tôi góp tiền từ bán bổi mua chai mật mía về để dành trong buồng ngủ. Bố đi bộ lên tận chợ Đền (chợ miền núi huyện Thạch Thành, Thanh Hóa) mua sắn “ngạc hưu” về làm bánh trùng mật mía. Đêm đông rét run bần bật, cả nhà ngồi quây quần bên đống củ sắn khô. Chị tôi gọt vỏ, bố khỏe tay cầm chày giã sắn, mẹ sàng dần lấy bột, thằng em út thì cứ chạy lăng xăng xin mẹ “cho con ít bột làm bánh nướng bếp than”. Mẹ bảo: “Để cúng tổ tiên, ăn trước là phải tội”.
Mẹ kể, bố mẹ lấy nhau gia sản chẳng có gì ngoài cái trách đất và 3 cái bát. Mỗi năm Tết đến Xuân về, bố mẹ bện thừng đem bán mua khoai. Cuộc sống đói khổ bần hàn vậy mà vẫn nuôi được bảy cái “tàu há mồm khôn lớn”. Ngày Tết, những gia đình khá giả mới làm bánh trùng mật bằng bột gạo nếp. Còn nhà tôi ngoài bố mẹ còn có “bảy toa tàu miệng ăn núi lở” nên bánh trùng mật làm bằng bột sắn “ngà hưu” đã là “đẳng cấp”.
Đêm ba mươi trời tối đen như mực. Cái rét giữa đông như cắt da cắt thịt. Trước khi đong ba bò bột sắn đổ ra mẹt, mẹ nhóm bếp đun nước sôi. Ngọn đèn dầu không đủ sáng trong gian bếp nhỏ, mẹ múc nước sôi đổ vào bột. Bàn tay mẹ nhào nặn từng chiếc bánh tròn trịa để quanh miệng mẹt. Nồi nước sôi ùng ục từ lúc nào. Tôi giơ cao đèn, mẹ vừa bỏ từng chiếc bánh vào nồi vừa bảo: “Tết nào nhà ta cũng làm bánh dùng để cúng ông bà Tổ tiên. Cúng xong mẹ sẽ cho các con ăn nhé”.
Hai tay mẹ bưng nồi bánh chắt khô nước rồi đổ chai mật mía vào, tắt lửa, đậy vung. Trong khi chờ mật ngấm vào bánh, mẹ dặn, sáng mùng một Tết phải dậy sớm làm cơm cúng, mặc quần áo đẹp để được mừng tuổi mới.
Những chiếc bánh trùng mật được múc ra bát nhỏ. Bưng mâm bánh đặt lên bàn thờ Tổ tiên, ba nén hương thơm giữa đêm ba mươi tĩnh lặng, mẹ khấn. Dáng mẹ thấp bé. Chiếc áo bông sờn cũ chưa đủ ấm mùa đông giá lạnh.
Tàn nhang, mẹ gọi: “Các con đâu rồi, dậy đi nào. Bánh dùng ngon đây. Thằng Thắng trải chiếu, thằng Dũng lấy mâm, thằng Chiến lấy bát...”.
Cả nhà ngồi quây quần bên nhau trên mảnh chiếu cũ dưới nền đất. Vừa ăn vừa nói chuyện cách làm bánh dùng bằng bột sắn. Mẹ bảo: “No ba ngày Tết, đói ba tháng hè. Nhà đông con của không ngon cũng hết”.
Cắn miếng bánh dùng “ngập chân răng” đẫm mật ngọt lịm tôi bảo: “Mẹ ơi Tết năm sau nhà mình vẫn làm bánh dùng mẹ nhé”. Mắt mẹ rưng rưng nhìn tôi. Tôi hiểu hạnh phúc ùa về trong tim mẹ.
TRẦN MẠNH TUẤN