Mùa Xuân những năm ấy
VHO - 80 năm! Có thể đó là chặng đường dằng dặc của một đời người, cũng có thể là chiều dài của một triều đại trong lịch sử. Còn đối với Quân đội Nhân dân Việt Nam, thì sức mạnh, tầm vóc ngày càng vươn cao, bay xa bằng sức sống của một dân tộc, một sức trẻ.

Một ngày sau khi bản Tuyên ngôn Độc lập vang lên trên Quảng trường Ba Đình, ngày 3 tháng 9 năm 1945, ông Trần Tử Bình nhận lệnh triệu tập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến tòa nhà Bắc Bộ Phủ. Ngồi cùng có ông Trương Văn Lĩnh, người ở Trung Quốc nhiều năm, đã học một số khóa đào tạo quân sự. Hồ Chủ tịch giao cho hai ông trọng trách thành lập Trường Đào tạo cán bộ quân sự. Việc chọn người, giao việc đều rất cẩn trọng.
Đúng thời điểm ba tổ chức Cộng sản hợp nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3 tháng 2 năm 1930, ông Trần Tử Bình cùng chi bộ 5 người Cộng sản đã lãnh đạo cuộc nổi dậy của 5.000 công nhân Cao su Phú Riềng, làm chủ đồn điền trong một tuần, lực lượng vũ trang Xích vệ đội làm nòng cốt, làm chấn động Đông Dương. Xích vệ đội là lực lượng quân sự đầu tiên khi Đảng Cộng sản được thành lập.
Sau khi tổ chức cuộc đại vượt ngục Hỏa Lò cho hơn 100 tù nhân Cộng sản vào dịp Nhật đảo chính Pháp tháng 3 năm 1945, ông thành lập Chiến khu Quang Trung (Hòa Bình - Ninh Bình - Thanh Hóa) đầu tháng 5 năm 1945, thành lập 3 trung đội Việt Nam Giải phóng quân, đào tạo gấp khóa I theo chương trình “Trường Sơn kháng Nhật” được 45 học viên là cán bộ chỉ huy cho các địa phương.
Xây dựng lực lượng quân sự ở các chiến khu, khi thời cơ chín muồi, Việt Minh có sức mạnh sẵn sàng từ miền rừng núi phía Bắc tràn xuống, từ vành đai duyên hải thốc vào, từ vùng Tây Nam đồng bằng Bắc Bộ xiết ngược lên, miền Bắc sẽ được giải phóng.
Đầu tháng 6 năm 1945, bàn giao công tác lãnh đạo Chiến khu Quang Trung cho đồng chí Văn Tiến Dũng, ông Trần Tử Bình trở lại Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ đặc trách nhiệm vụ xây dựng và lãnh đạo lực lượng du kích ở các tỉnh đồng bằng, đây sẽ là lực lượng quân sự tại chỗ, sức mạnh trực tiếp để cướp chính quyền ở các tỉnh lỵ. Thời cơ cách mạng đang đến gần!
Và thời cơ ngàn năm đã đến với dân tộc Việt Nam - Cách mạng Tháng Tám! Ở cương vị Thường vụ và Thường trực xứ ủy Bắc Kỳ, ông Trần Tử Bình đã cùng các Ủy viên Xứ Ủy lãnh đạo giành Chính quyền Cách mạng thành công ở các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ với trung tâm là Thủ đô Hà Nội như lịch sử đã ghi nhận, khi chưa nhận được chỉ thị của Trung ương từ Tân Trào. Bản lĩnh ở các nhà Cách mạng là thế.
Vậy là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi trọn niềm tin cho hai nhà Cách mạng xây dựng lực lượng quân sự chính quy đầu tiên cho quân đội.
Tháng 10 năm 1945, Trường Quân chính Việt Nam khai giảng. Cho đến tháng 4 năm 1946, Trường đã đào tạo cấp tốc được 7 khóa, cung cấp số lượng cán bộ chỉ huy quân sự ban đầu quý báu cho lực lượng quân đội non trẻ.
Tình hình căng thẳng ngày càng đẩy đất nước đến bên bờ vực cuộc chiến toàn quốc khi Pháp đã gây hấn ở Nam Kỳ, Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn được ra đời, gắn liền với 6 chữ vàng “Trung với nước - Hiếu với dân” thêu trên lá cờ Hồ Chủ tịch tặng vào ngày 26 tháng 5 năm 1946. Chính ủy, Phó Giám đốc là ông Trần Tử Bình; Giám đốc là ông Hoàng Đạo Thúy. Khóa I Võ bị được bế giảng sớm hơn chương trình dự định vào tháng 11 năm 1946 để lực lượng học viên non trẻ kịp luân chuyển phiên chế về các đơn vị địa phương, sẵn sàng cho cuộc kháng chiến trường kỳ khai hỏa vào ngày 19 tháng 12 năm 1946.
Bàn giao công việc đào tạo, ông Trần Tử Bình gấp rút chuyển về công tác tại Trung ương, cuộc chiến đã bùng nổ, quân sự mạnh hay yếu là sự nghiệp còn hay mất!
Sự chênh lệch về vũ khí và kinh nghiệm chiến địa giữa đội quân non trẻ với lực lượng thiện chiến viễn chinh Pháp đã bộc lộ qua những cuộc đối đầu thực sự. Từ tháng 1 năm 1947 đã xuất hiện tình trạng: Vỡ mặt trận!
Vỡ mặt trận ở Huế, Sơn La, Tiên Yên để lại nhiều hệ lụy rất xấu như: Dao động về tư tưởng, tự động rời bỏ hàng ngũ chiến đấu, mất liên lạc tự giải tán… khác hẳn với việc chủ động rút lui.
Các hội nghị quân sự liên tục được tổ chức rút kinh nghiệm, nhận định, tìm ra đường lối ứng phó với lực lượng quân sự hùng mạnh của Pháp.
Và cuộc đọ sức quyết định đã đến. Pháp thực hiện chiến dịch qua 2 bước có mật danh là Leá và Cloclo để tiêu diệt Chính phủ Việt Nam, chấm dứt chiến tranh vào cuối năm 1947. Cán bộ quân sự Trung ương được phân công gấp rút đối đầu với mỗi cánh quân đối phương. Anh Văn Tiến Dũng phụ trách bộ phận nặng ở lại căn cứ, đi sâu vào núi rừng; bộ phận nhẹ di chuyển ra ngoài vùng bị uy hiếp. Anh Võ Nguyên Giáp đi mặt trận đường số 4, anh Hoàng Văn Thái đi mặt trận đường số 3, anh Trần Tử Bình và Lê Thiết Hùng đi mặt trận Sông Lô và đường số 2. Hồ Chủ tịch và Trung ương ở lại An toàn khu.
Tất cả đã sẵn sàng đương đầu trong một chiến dịch có quy mô cực lớn của địch.
Tại mặt trận Sông Lô, lần đầu tiên pháo binh Việt Nam bắn trúng tàu chiến Pháp vào ngày 23 tháng 10 năm 1947 với quyết định táo bạo đặt trận địa pháo ngay sát bờ sông Lô tại Khoan Bộ. Đây là một lời khẳng định để chỉ một ngày sau đó, Ban Chỉ huy Khu 10 cùng quân dân đã tạo ra một “Thảm họa Đoan Hùng” cho lực lượng viễn chinh, bắn chìm 2 chiếc tại chỗ, bắn hỏng nặng 2 chiếc khác. “Tin chiến thắng Đoan Hùng như một luồng gió mát thổi lan khắp Việt Bắc trong những ngày nóng bỏng nhất của chiến tranh” ( Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể, nhà văn Hữu Mai ghi).
Mùa Xuân năm Mậu Tý (1948), sau thắng lợi vang dội của Chiến dịch Thu Đông 1947, thế hệ tướng lĩnh đầu tiên của quân đội Quốc gia Việt Nam được phong tặng, những tướng lĩnh trận mạc khói lửa. Những ngôi sao tựa bông mai kiêu hãnh, tinh túy đầy hùng khí, bình lặng mà rực lửa, được gắn lên quân hàm của một Đại tướng, một Trung tướng và chín Thiếu tướng.
Ông Trần Tử Bình đứng trong hàng ngũ 9 Thiếu tướng đầu tiên đó!
Mùa Xuân những năm ấy… Người Cộng sản Trần Tử Bình đã tổ chức lực lượng quân sự từ Tết Canh Ngọ - 1930, tổ chức cuộc đại vượt ngục Hỏa Lò và thành lập Chiến khu Quang Trung sau Tết Ất Dậu - 1945; thành lập và lãnh đạo Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn mùa Xuân năm Bính Tuất - 1946; thụ phong hàm tướng mùa Xuân Mậu Tý - 1948…