Người bạn Nga kể về Intervision 2025:

“Có lẽ tôi đã trở thành một Việt kiều đặc biệt”

MIKHAIL OSIN

VHO - LTS: Mikhail Osin (Minh) là phiên dịch viên của đoàn Việt Nam tham dự Cuộc thi Âm nhạc quốc tế Intervision 2025. Minh đã chứng kiến những khoảnh khắc thăng hoa trên sân khấu, những câu chuyện hậu trường giản dị mà ấm áp, và trên hết là tình cảm chan hòa đã chạm đến trái tim, để lại trong anh “dòng thác ký ức không bao giờ quên”. Văn Hóa xin trân trọng giới thiệu bài viết bằng tiếng Việt của anh.

“Có lẽ tôi đã trở thành một Việt kiều đặc biệt” - ảnh 1
Minh phiên dịch cho ca sĩ Đức Phúc sau khi đăng quang

Tôi là Mikhail Osin, sinh viên năm thứ ba Viện nghiên cứu Á - Phi, Đại học Quốc gia Moskva (Đại học Lômônôxốp). Bạn bè Việt Nam gọi tôi bằng cái tên Minh, cái tên tôi chọn cho mình sau một năm thực tập tại Hà Nội. Intervision 2025 đã khép lại nhưng ký ức về 12 ngày sống cùng đoàn Việt Nam ở Moskva thì vẫn như vừa mới hôm qua.

Tôi đến với Intervision thật tình cờ. Ban đầu chỉ là lời nhờ vả dịch tạm một cuộc họp của nhà sản xuất. Tôi xoay xở với cả núi từ vựng chuyên ngành, khó khăn nhưng vẫn vượt qua. Không ngờ vài tuần sau, những người hôm ấy lại liên hệ, đề nghị tôi trở thành phiên dịch kiêm tùy viên cho đoàn đại biểu Việt Nam. Tôi đã đồng ý mà không do dự một giây.

Chỉ đến lúc ngồi suy ngẫm, tôi mới thấy rõ trách nhiệm nặng nề đặt lên vai mình: Giúp một đoàn nghệ sĩ từ đất nước xa xôi cảm thấy như ở nhà. Tôi tưởng tượng về họ: Họ sẽ là ai, có dễ gần không, liệu tôi có thể hòa hợp, có thể làm tròn nhiệm vụ? Trong lòng tôi khi ấy là sự hỗn độn giữa hạnh phúc, hồi hộp và cả bồi hồi. Tôi biết, mình sắp bước vào một hành trình đặc biệt, một hành trình có thể làm thay đổi cuộc đời.

Ngày đoàn Việt Nam đặt chân tới Moskva, tôi bắt đầu chuỗi ngày dài làm việc không ngừng nghỉ từ tờ mờ sáng đến nửa khuya, với khối lượng công việc không tưởng. Nhưng lạ thay, tôi không thấy mệt mỏi, bởi xung quanh tôi là những con người giàu năng lượng và nhiệt huyết. Chúng tôi ở chung khách sạn, ăn cùng nhà hàng, cùng nhau tham gia chương trình văn hóa, tập luyện, tổng duyệt, ghi hình…

Mỗi ngày là một chuỗi sự kiện dồn dập và đáng nhớ đến mức tôi thường thao thức mà thốt lên: “Hôm nay đúng là một ngày kỳ diệu!”. Trong quãng thời gian ấy, họ không còn là “đoàn đại biểu” mà thực sự là gia đình. Chúng tôi gọi nhau bằng tên thân mật, chia sẻ từng bữa ăn, từng câu chuyện nhỏ. Ngày tiễn đoàn ra sân bay, tôi đã rơi nước mắt, những giọt nước mắt hiếm hoi của một chàng trai trưởng thành. Tôi nhận ra, sau hành trình này, cuộc sống của tôi sẽ không bao giờ còn trở lại như trước.

Có một bài hát Nga mà tôi rất thích: “Đừng coi thường những phút giây” của Tariverdiev. Bài hát nói rằng, mỗi khoảnh khắc đều mang một lý do riêng, một âm vang riêng, một dấu ấn riêng; và chính từ những mảnh ghép tưởng như nhỏ bé ấy, cả một cơn mưa kỷ niệm được dệt nên, để rồi dòng thác ký ức từ trên cao cứ thế tuôn trào, dữ dội và dịu êm. Tôi thấy nó phản chiếu chính xác hành trình của mình.

Đó là khoảnh khắc chúng tôi cùng nhau ăn kem ở GUM, hay lần bước chân vào Nhà hát Bolshoi, nơi ngay cả tôi, một người Moskva, cũng chưa từng đến. Là khi ngồi giữa chợ Izmailovsky rộn ràng, nghe các bạn Việt Nam trầm trồ trước sắc màu bản địa. Và là những buổi tối muộn, khi cả đoàn quây quần, mệt rã rời nhưng vẫn chuyện trò rôm rả và nở những nụ cười giòn tan.

Tôi còn nhớ rõ sự gắn kết kỳ lạ của họ: Mỗi người một sở thích, một cá tính, nhưng khác biệt không hề chia tách họ, trái lại, tất cả đều thống nhất trong ý thức rằng mình đang gánh trên vai sứ mệnh mang vinh quang về cho Tổ quốc. Chính sự hòa quyện giữa cá tính riêng và trách nhiệm chung ấy đã tạo nên một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ và nổi bật. Ngoài ra, đó là tình cảm từ cộng đồng người Việt tại Nga. Họ chẳng quen biết ai trong đoàn, nhưng vẫn đến, mang theo những món ăn quê hương, ngồi quây quần như thể Moskva bỗng hóa Hà Nội.

Có người còn theo đoàn suốt nhiều ngày sau chiến thắng, chỉ vì một câu mộc mạc: “Vì họ là đồng hương của chúng tôi mà”. Câu nói ấy đến nay vẫn khiến tôi thấy sống mũi cay cay và nhớ đến lời động viên của anh Thắng (ông Hà Minh Thắng, Cục phó Cục Nghệ thuật biểu diễn, Trưởng đoàn) động viên ca sĩ Đức Phúc và vũ đoàn trước thời điểm lên sân khấu: “Hàng chục triệu đồng bào đang đứng phía sau ủng hộ các em, hãy cố gắng hết sức để mang vinh quang về cho Tổ quốc”.

Nếu có một tiết mục khiến tôi nhớ mãi thì đó chính là Phù Đổng Thiên Vương. Tôi đã tận mắt chứng kiến biết bao công sức dồn vào đó: Những vũ công tập luyện miệt mài, Đức Phúc ngày nào cũng hát hết mình trong tổng duyệt, ê kíp chăm chút từng chi tiết. Một đạo diễn Intervision nói với tôi: “Tiết mục của Việt Nam chuẩn đến mức tổng duyệt không sai một nhịp nào”.

Tôi vinh dự là người dịch lời bài hát sang tiếng Nga. Có những câu gần như bất khả dịch, nhưng tôi đã cố gắng giữ được cái hồn: Từ “Con Rồng cháu Tiên” cho tới Thánh Gióng. Mỗi lần nghe lại, tôi đều nổi da gà. Điều thú vị là khán giả Nga cũng cảm nhận được sự quen thuộc, bởi đất nước chúng tôi cũng có những sử thi về các anh hùng Bogatyr, những chàng trai mang sức mạnh phi thường từ thuở nhỏ. Khi huyền thoại của hai dân tộc gặp nhau, khán giả như tìm thấy sợi dây đồng cảm. Tôi tin, chính sự đồng điệu ấy đã khiến tiết mục Việt Nam được yêu mến nồng nhiệt đến vậy.

Đêm chung kết, tôi làm phiên dịch trên sân khấu. Chỉ vài giây thôi nhưng tôi bất ngờ nhận được hàng loạt lời chúc mừng từ mạng xã hội, từ bạn bè, từ cả những người xa lạ. Trên truyền hình, gương mặt tôi chợt xuất hiện trước cả thế giới. Vài giây ngắn ngủi ấy, với tôi, là một phép màu. Nó thôi thúc tôi bước tiếp, học nhiều hơn, sống hết mình hơn.

Tôi từng đùa: “Có lẽ tôi đã trở thành một Việt kiều đặc biệt”. Thực ra, điều đó không còn là đùa nữa. Tôi yêu tiếng Việt, yêu văn hóa và con người Việt Nam. Trong hai năm tới, tôi muốn tiếp tục rèn luyện ngôn ngữ, giúp bạn bè Việt Nam khi họ đến Nga, và sau khi tốt nghiệp, tôi sẽ về Việt Nam khởi đầu sự nghiệp. Hiện tại, vé máy bay quá đắt khiến tôi chưa thể trở lại ngay. Nhưng tôi tin, giống như cách Intervision đã đến với tôi, số phận sẽ dẫn tôi về Việt Nam.

Người Nga có câu: “Biết tiếng, đi khắp thế gian”. Với tôi, tiếng Việt chính là chiếc chìa khóa mở ra con đường ấy. Điều quý nhất tôi nhận ra sau Intervision là sức mạnh của ngôn ngữ trong việc kết nối con người. Tôi yêu việc học tiếng Việt, yêu việc kể cho bạn bè Việt Nam về nước Nga, và hơn hết, tôi tin đó là hình thức “ngoại giao nhân dân” đẹp nhất. 

 Bất ngờ với Thép đã tôi thế đấy

Trong lần dẫn đoàn Việt Nam đến khu chợ trời Izmailovsky ở ngoại ô Moskva, tôi nhờ Minh tìm mua bản tiếng Nga cuốn Thép đã tôi thế đấy, cuốn sách gối đầu giường của biết bao thế hệ thanh niên Việt Nam. Khắp chợ đều không có. Minh nửa đùa nửa thật: “Cả chợ đều biết anh đang tìm cuốn này rồi đấy”.

Câu chuyện tưởng như khép lại, cho đến ngày chia tay đoàn, Minh bất ngờ xuất hiện với nụ cười quen thuộc, trên tay là bản in Thép đã tôi thế đấy xuất bản năm 1977, bìa đẹp, giấy trắng và còn nguyên vẹn sau gần nửa thế kỷ. Hóa ra, hôm ở chợ, có người đã tìm Minh và chỉ cho anh một hiệu sách nhỏ khuất sâu trong ngõ. Minh lặng lẽ mua và giữ lại để làm quà.

NGỌC TRUNG