Bộ VHTTDL tăng hạng trong bảng xếp hạng cấp Bộ có cung cấp dịch vụ công

VHO - Chiều 12.7, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết 6 tháng đầu năm 2023 về chuyển đổi số quốc gia và Đề án phát triển dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06).

Bộ VHTTDL tăng hạng trong bảng xếp hạng cấp Bộ có cung cấp dịch vụ công - Anh 1

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2023 về chuyển đổi số quốc gia

Hội nghị được kết nối trực tuyến từ trụ sở Chính phủ tới điểm cầu tại trụ sở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Cùng tham dự Hội nghị có Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà; Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an, Tổ trưởng Tổ công tác triển khai Đề án 06 của Chính phủ; Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn, Tổ phó Tổ công tác Đề án 06; các thành viên Ủy ban quốc gia và Tổ công tác triển khai Đề án 06; lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương, lãnh đạo, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các vụ, cục, đơn vị thuộc các bộ, lãnh đạo các sở, ban, ngành cấp tỉnh, thành viên Ban Chỉ đạo chuyển đổi số cấp tỉnh và Tổ công tác triển khai Đề án 06 cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, đại diện một số doanh nghiệp.

Tại điểm cầu Bộ VHTTDL có Thứ trưởng Hoàng Đạo Cương; lãnh đạo các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ.

"Tạo lập và khai thác dữ liệu để tạo ra giá trị mới"

Theo báo cáo của Bộ TT&TT, về cơ sở dữ liệu, đến tháng 6.2023, với sự quyết tâm của Bộ Công an trong tổ chức triển khai Đề án 06, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã kết nối chính thức với 13 bộ, ngành, 4 doanh nghiệp và 63/63 địa phương để phục vụ khai thác thông tin dân cư. Đã tiếp nhận tổng số 1.014.473.517 yêu cầu để tra cứu, xác thực thông tin công dân. Trong đó, số yêu cầu tra cứu, xác thực có thông tin đúng (100% trùng khớp các thông tin) với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là 604.825.046 yêu cầu; có thông tin sai lệch là 409.648.471 yêu cầu.

Việc khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư giúp tiết kiệm chi phí sao in hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính; hạn chế việc di chuyển; thời gian chờ đợi; hạn chế việc phải kiểm tra xác minh mà sử dụng dữ liệu của các bộ, ngành để xác thực, xác minh thông tin trên giấy tờ tùy thân; tinh gọn cán bộ, công chức tiếp dân, giảm tình trạng gặp gỡ trực tiếp, giúp tiết kiệm cho xã hội hàng nghìn tỉ đồng…

Đặc biệt, cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức được triển khai kết nối, chia sẻ dữ liệu trên quy mô quốc gia với tiến độ thần tốc (trong vòng 6 tháng đạt khoảng 95% cơ quan, đơn vị) so với thời gian để các cơ sở dữ liệu quốc gia trước đó đạt mức độ bao phủ tương tự.

Tính đến hết ngày 30.6.2023, đã có 96 Bộ, ngành, địa phương (33 bộ, ngành và 63 tỉnh, thành phố) hoàn thành kết nối và đồng bộ dữ liệu với cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức. Tổng số dữ liệu được đồng bộ tự động về cơ sở dữ liệu quốc gia đến thời điểm này là 2.087.114 hồ sơ (trong đó Bộ, ngành là 132.626/253.837 hồ sơ, đạt 50,25%), địa phương là 1.974.488/2.030.095 hồ sơ, đạt 96,28%). Về hạ tầng số, đáng chú ý, các doanh nghiệp viễn thông di động đã triển khai phủ sóng được 2.416/3.924 thôn lõm sóng viễn thông, trong đó có 2.418 thôn lõm sóng giai đoạn 2021-2022 và phát sinh mới 1.506 thôn giai đoạn 2022-2023.

Việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia có chuyển biến rõ rệt. Lũy kế đến nay, Cổng có hơn 7,77 triệu tài khoản (tăng hơn 3,8 lần so với cùng kỳ năm ngoái); hơn 212 triệu hồ sơ đồng bộ (tăng hơn 1,76 lần so với cùng kỳ năm ngoái); hơn 17,49 triệu lượt thực hiện các dịch vụ tiện ích (tăng hơn 3 lần so với cùng kỳ năm ngoái); 17,72 triệu hồ sơ trực tuyến từ Cổng (tăng hơn 4,4 lần so với cùng kỳ năm ngoái); hơn 10,98 triệu giao dịch thanh toán trực tuyến với số tiền hơn 6,056 nghìn tỉ đồng (tăng hơn 3 lần so với cùng kỳ năm ngoái)…

Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, các báo cáo và ý kiến cho thấy một số kết quả tích cực trong chuyển đổi số quốc gia, cụ thể là trong nâng cao nhận thức, hoàn thiện thể chế, xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là về dữ liệu, đầu tư tài chính, cơ sở vật chất và con người, tạo các dịch vụ công, tiện ích cho người dân và doanh nghiệp, phục vụ sự phát triển của đất nước, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Thủ tướng nêu rõ, những kết quả tích cực này mới chỉ là bước đầu và chúng ta vẫn chưa hài lòng, còn nhiều tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc. Nhiều lãnh đạo các ban, bộ, ngành, địa phương chưa coi chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm, chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực cho chuyển đổi số. Nhiều chỉ tiêu chưa có thông tin để đánh giá; trong các chỉ tiêu có thông tin đánh giá cũng có một số chỉ tiêu khó hoàn thành. Tốc độ mạng băng rộng cố định, di động vẫn là mức trung bình khá.

Chất lượng dịch vụ công trực tuyến  còn thấp, chưa đạt kỳ vọng của người dân, doanh nghiệp. Tính liên thông, chia sẻ, đồng bộ giữa các cơ sở dữ liệu quốc gia còn thấp. Nền tảng xã hội số, thương mại điện tử còn hạn chế, ảnh hưởng đến khả năng tự chủ trong chuyển đổi số quốc gia. Nhân lực cho chuyển đổi số còn chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng, chất lượng, phân bổ chưa đồng đều. An toàn, an ninh mạng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Nhằm phát huy kết quả đã đạt được, những kinh nghiệm quý, bài học hay, đồng thời khắc phục tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc để triển khai thành công Đề án 06, Thủ tướng nhấn mạnh, phải xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu, cần được tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa, vượt qua rào cản, khó khăn, thách thức, tạo đột phá hơn nữa với quan điểm toàn dân, toàn diện, tổng thể, không để ai bị bỏ lại phía sau nhưng phải có ưu tiên. Thủ tướng nêu rõ 4 ưu tiên gồm: Ưu phát triển dữ liệu, xây dựng cơ sở dữ liệu "đúng, đủ, sạch, sống" (dữ liệu là tài nguyên), ưu tiên phát triển các dịch vụ công trực tuyến gắn với đời sống người dân, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và có đối tượng bao phủ lớn; ưu tiên phát triển các nền tảng (nhất là các cơ sở dữ liệu quốc gia); ưu tiên bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin.

Thủ tướng nêu rõ, xây dựng, phát triển hệ sinh thái công dân số phải là một nền tảng quan trọng của chuyển đổi số quốc gia. Kinh tế số là động lực quan trọng phát triển kinh tế Việt Nam. Xã hội số là một trong những nền tảng của xã hội Việt Nam. Văn hóa số là một phần quan trọng của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.

Cùng với đó, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người dân và doanh nghiệp; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể, làm mục tiêu, động lực, nhằm phục vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp. Có tầm nhìn chiến lược và liên tục đổi mới từ tư duy, nhận thức, hành động cho phù hợp điều kiện thực tiễn; phát triển từ quy mô cấp tỉnh, vùng, quốc gia sang quy mô quốc tế gắn với đẩy mạnh hội nhập quốc tế.

Huy động mọi nguồn lực, sự tham gia của cả hệ thống chính trị, người dân và cộng đồng doanh nghiệp. Tổ chức triển khai chuyển đổi số quốc gia tại từng bộ, ngành, địa phương phải đi vào thực chất, mang lại giá trị thiết thực cho chính quyền, người dân, doanh nghiệp gắn với sự tham gia của cả hệ thống chính trị, người dân, doanh nghiệp.

Theo Thủ tướng, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm gắn với phân bổ nguồn lực phù hợp, nâng cao năng lực cán bộ thực thi, tăng cường kiểm tra, giám sát, đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong triển khai Đề án 06 nói riêng và chuyển đổi số quốc gia nói chung. Người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương phải thường xuyên trực tiếp sử dụng các dịch vụ công trực tuyến, sản phẩm chuyển đổi số của chính bộ, ngành, địa phương mình; trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thúc đẩy chuyển đổi số, thực hiện Đề án 06. Cùng với đó, cần huy động mọi nguồn lực, sự tham gia của cả hệ thống chính trị, người dân và cộng đồng doanh nghiệp. Xây dựng cơ chế theo dõi, giám sát việc triển khai cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Đẩy mạnh triển khai một số cơ chế thí điểm, thử nghiệm quan trọng để mở rộng trong thời gian tới. Phát huy tinh thần chủ động, đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung.

Thủ tướng nêu rõ các nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới, mà trước hết là phải quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, tạo bước đột phá mạnh mẽ trong thực hiện chuyển đổi số quốc gia và triển khai Đề án 06, với quan điểm "chuyển đổi số quốc gia là công việc rất lớn, rất chiến lược, nhưng phải bắt đầu bằng những hành động cụ thể, mục tiêu cụ thể, làm việc nào dứt điểm việc đó, không thể chung chung được".

Thủ tướng nhấn mạnh, năm 2023 là năm "Tạo lập và khai thác dữ liệu để tạo ra giá trị mới" với nhiệm vụ trọng tâm là số hóa, xây dựng, kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương; là bảo vệ dữ liệu cá nhân; khai thác, sử dụng dữ liệu để phục vụ ngày càng tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp. Thủ tướng tin tưởng rằng, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự hưởng ứng của người dân, cộng đồng doanh nghiệp, công cuộc chuyển đổi số quốc gia và Đề án 06 sẽ được triển khai thành công ở cấp độ quốc gia, thúc đẩy phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số.  

Bộ VHTTDL tăng bậc trong bảng xếp hạng cung cấp dịch vụ công

Bộ VHTTDL tăng hạng trong bảng xếp hạng cấp Bộ có cung cấp dịch vụ công - Anh 2

Điểm cầu trực tuyến tại Bộ VHTTDL

Theo báo cáo của Bộ VHTTDL về kết quả triển khai chuyển đổi số trong 6 tháng đầu năm 2023, Bộ VHTTDL đã xây dựng Kế hoạch hành động nâng cao chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Trong đó  có các nhiệm vụ “Triển khai thực hiện Kế hoạch năm 2023 của Bộ VHTTDL thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg” và “Nghiên cứu, ứng dụng thẻ căn cước công dân gắn chip, ứng dụng VNeID và khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, tích hợp các thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, thẻ căn cước công dân và tài khoản định danh điện tử dần thay các loại giấy tờ công dân, trước mắt là thay thế số hộ khẩu, sổ tạm trú giấy”.

Bộ VHTTDL đã hoàn thành việc tổ chức thu thập, tổng hợp số liệu phục vụ đánh giá chuyển đổi số tại các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ và nhập số liệu, tài liệu kiểm chứng cho công tác chấm điểm, đánh giá, xếp hạng mức độ chuyển đổi số năm 2023 trên phần mềm của Bộ Thông tin và Truyền thông. Đối với nhiệm vụ 100% thủ tục hành chính đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được cung cấp dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; 100% dịch vụ công trực tuyến được thiết kế, thiết kế lại nhằm tối ưu hóa trải nghiệm người dùng, khi sử dụng được điền sẵn dữ liệu mà người dùng đã cung cấp trước đó theo thỏa thuận, phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ: Nhiệm vụ này đã hoàn thành theo đánh giá của Bộ VHTTDL tại Quyết định số 405/QĐBVHTTDL ngày 24.2.2023 về việc ban hành kế hoạch chuyển đổi số của Bộ VHTTDL năm 2023 và Quyết định số 784/QĐ-BVHTTDL ngày 30.3.2023 ban hành Danh mục TTHC cấp Trung ương thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ VHTTDL đủ điều kiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình.

Đối với nhiệm vụ 100% người dân và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến được định danh và xác thực thông suốt, hợp nhất trên tất cả các hệ thống của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương: Nhiệm vụ này đã hoàn thành và có trong Kế hoạch chi tiết triển khai Đề án đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC của Bộ VHTTDL ban hành tại Quyết định số 709/QĐ-BVHTTDL ngày 30.3.2022 (cụ thể tại phân hệ xác thực trong phần mềm hợp nhất Cổng Dịch vụ công với Hệ thống thông tin Một cửa điện tử).

Tính đến ngày 21.6.2023, số liệu trên Cổng Dịch vụ công quốc gia cho thấy có 555.096 tài khoản của người dân và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến đã được định danh và xác thực thông qua nền tảng VNeID.

Đối với nhiệm vụ tối thiểu 20% thủ tục hành chính của các cơ quan nhà nước được phân cấp, cắt giảm so với hiện nay: Nhiệm vụ này đã hoàn thành và có trong Kế hoạch của Bộ VHTTDL triển khai nhiệm vụ xây dựng “Đề án phân cấp trong giải quyết thủ tục hành chính” của Bộ tại QĐ số 2605/QĐ-BVHTTDL ngày 12.10.2021. Bộ VHTTDL đã hoàn thành phương án cắt giảm, phân cấp tối thiểu 20% thủ tục hành chính và đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận phương án. Hiện nay, Bộ đang tiến hành sửa đổi các văn bản quy định pháp luật liên quan. Ngoài ra, Bộ VHTTDL đã chỉ đạo và yêu cầu các đơn vị thuộc Bộ thường xuyên rà soát và nghiêm túc triển khai thực hiện việc cắt giảm các quy định về điều kiện kinh doanh; cắt giảm, đơn giản hoá, phân cấp thực hiện thủ tục hành chính thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12.5.2020 của Chính phủ tại các Quyết định số 1805/QĐ-BVHTTDL ngày 30.6.2020, Quyết định số 3511/QĐ-BVHTTDL ngày 29.12.2021 và Quyết định số 180/QĐ-BVHTTDL ngày 25.01.2022.

 Đã hoàn thành nhiệm vụ rà soát, chuẩn hóa, điện tử hóa mẫu đơn tờ khai theo hướng cắt giảm tối thiểu 20% thông tin phải khai báo trên cơ sở tái sử dụng dữ liệu đã được số hóa. Hệ thống cung cấp dịch vụ công trực tuyến đến người dân, doanh nghiệp của Bộ VHTTDL đã có kho lưu trữ dữ liệu điện tử và tái sử dụng tối đa thông tin, dữ liệu, giấy tờ liên quan đến cá nhân, tổ chức trong giải quyết thủ tục hành chính công. Đối với nhóm nhiệm vụ về phát triển, kết nối, khai thác dữ liệu để tạo ra giá trị mới theo định hướng của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số “dữ liệu số là nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2023”: Nhiệm vụ này đang thực hiện. Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định số 1294/QĐ-BVHTTDL ngày 22.5.2023 về Kế hoạch khảo sát tổng thể cơ sở dữ liệu ngành VHTTDL năm 2023 và đang chỉ đạo cơ quan, đơn vị thuộc Bộ thực hiện:Xây dựng Kế hoạch về dữ liệu mở bao gồm danh mục dữ liệu mở, kế hoạch công bố dữ liệu mở, mức độ tối thiểu cần đạt được trong từng giai đoạn. Hiện nay, lĩnh vực du lịch đã tiến hành mở dữ liệu phục vụ cho du khách và các công ty kinh doanh dịch vụ lữ hành, cơ sở kinh doanh lưu trú khai thác, sử dụng (tính đến tháng 6 năm 2023 có 66 nghìn lượt tải ứng dụng Du lịch Việt Nam và 29 nghìn lượt tải ứng dụng Quản trị kinh doanh du lịch). Danh mục cơ sở dữ liệu của Bộ VHTTDL đã được xây dựng. Các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ đang xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ thể để triển khai các cơ sở dữ liệu trong danh mục. Bộ VHTTDL đang xây dựng Kế hoạch triển khai nền tảng phân tích, xử lý dữ liệu tổng hợp của Bộ có ứng dụng trí tuệ nhân tạo phục vụ công tác chỉ đạo điều hành và nâng cao hiệu quả hoạt động trong Bộ VHTTDL.

Cùng với đó, hệ thống quản lý văn bản và điều hành được duy trì hoạt động thông suốt, ổn định đảm bảo 100% hoạt động chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Bộ và liên thông 4 cấp chính quyền. Trao đổi văn bản điện tử và hồ sơ xử lý công việc được đưa vào sử dụng dưới dạng điện tử, được ký số bởi chữ ký số chuyên dùng (trừ văn bản mật theo quy định của pháp luật) từ 2018 đến nay và đã được sử dụng tại 101 đơn vị thuộc Bộ VHTTDL.

6 tháng đầu năm 2023, Bộ VHTTDL đã hoàn thành triển khai Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp Bộ trên cơ sở hợp nhất Cổng dịch vụ công và Hệ thống thông tin Một cửa điện tử. 12 cơ quan cung cấp dịch vụ công tham gia sử dụng trên Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tập trung của Bộ VHTTDL.  Bộ VHTTDL đã xây dựng cơ sở dữ liệu Quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức theo Quyết định số 893/QĐ-TTg ngày 25.6.2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước. Tính đến tháng 6 năm 2023, trên hệ thống đã tạo lập được 6.566 tài khoản cho cán bộ, công chức, viên chức để kê khai hồ sơ; đã hoàn thành việc kết nối và đồng bộ được 6.213 hồ sơ lên hệ thống cơ sở dữ liệu Quốc gia về cán bộ công chức viên chức, đạt 94,6% (tính đến ngày 22.6.2023).

 Bộ VHTTDL đã triển khai các điều kiện kết nối, khai thác dữ liệu dân cư từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và đã kết nối thử nghiệm thành công với CSDLQG về dân cư do Bộ Công an quản lý. Đồng thời,  Bộ VHTTDL đã hoàn thành các thủ tục đăng ký triển khai kết nối với Bộ Công an để sử dụng dịch vụ; cam kết bảo đảm an ninh, an toàn và bảo mật thông tin của tổ chức; bảo mật thông tin của cá nhân khi cán bộ sử dụng kết quả các dịch vụ do CSDLQG về dân cư cung cấp…

Thực hiện chỉ đạo của Uỷ ban Quốc gia về chuyển đổi số xác định Dữ liệu số là nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2023, Bộ VHTTDL đã tổ chức triển khai, tuyên truyền, hỗ trợ, khuyến khích các cơ sở kinh doanh du lịch triển khai sử dụng Nền tảng quản trị và kinh doanh du lịch cung cấp dịch vụ quản trị, thống kê, báo cáo theo thời gian thực về các sản phẩm và dịch vụ du lịch, thông tin về du khách, các cơ sở lưu trú; sử dụng trợ lý ảo phục vụ hoạt động du lịch. Bộ VHTTDL đã tổ chức triển khai, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan triển khai lộ trình số hóa di sản văn hóa và triển khai Nền tảng bảo tàng số.

Theo Bộ VHTTDL, việc thực hiện các thủ tục đầu tư dự án, do quy trình thực hiện gồm nhiều thủ tục, nhiệm vụ thực hiện trong thời gian ngắn nên việc thực hiện đúng thời gian quy định còn gặp nhiều khó khăn. Các địa phương có nhiệm vụ tiên phong trong việc tổ chức triển khai, chỉ đạo triển khai các nền tảng số phục vụ du lịch, chuyển đổi số trong lĩnh vực du lịch chưa tích cực chủ động phối hợp với đơn vị chủ trì nền tảng số triển khai Quyết định số 17/QĐ-UBQGCĐS ngày 4/4/2023 theo quy định. Về chuyển đổi số triển khai trong quý III và 6 tháng cuối năm 2023, Bộ VHTTDL tập trung đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án công nghệ thông tin phục vụ hoạt động chuyển đổi số của ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành Bộ tiêu chí Nền tảng bảo tàng số và Nền tảng quản trị và kinh doanh du lịch thống nhất triển khai trong toàn quốc. Hoàn thành các thủ tục về thuê dịch vụ công nghệ thông tin đối với môi trường đảm bảo an toàn, an ninh thông tin để chính thức được khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu công dân từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư tại Bộ VHTTDL…

Để thúc đẩy chuyển đổi số, Bộ VHTTDL đề xuất Bộ TT&TT5 thống nhất là đơn vị ban hành các Bộ tiêu chí nền tảng số làm cơ sở triển khai trong toàn quốc. Đề nghị Bộ Công an khẩn trương hoàn thiện và đưa vào vận hành cơ sở dữ liệu căn cước công dân, bảo đảm chính xác và thống nhất, liên thông với cơsở dữ liệu hộ tịch, cơ sở dữ liệu về cư trú và hỗ trợ Bộ VHTTDL trong việc khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu về cư trú trong quản lý hoạt động du lịch.

 Sau khi các cơ sở dữ liệu quốc gia khác, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, cổng dịch vụ công, hệ thống thông tin Một cửa điện tử cấp bộ, phần mềm chuyên ngành,… được kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thì công tác đảm bảo an toàn, an ninh thông tin trong quá trình kết nối, chia sẻ thông tin là rất quan trọng, bảo đảm sử dụng đúng mục đích, yêu cầu và phòng, chống lộ lọt dữ liệu…

Theo bảng xếp hạng cấp bộ có cung cấp dịch vụ công năm 2022, Bộ VHTTDL xếp hạng 7, tăng 1 bậc so với năm 2021.

QUẢNG XƯƠNG

Ý kiến bạn đọc