Đào tạo nhân lực VHTTDL trước yêu cầu mới về kỹ năng số và AI
VHO - Hội thảo bàn giải pháp nâng cao kỹ năng số, AI trong đào tạo nhân lực văn hóa, nghệ thuật, thể thao và du lịch, hướng tới đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.

Ngày 24.11, tại Trường ĐH Văn hóa TP.HCM, Bộ VHTTDL tổ chức Hội thảo tập huấn “Khai thác, ứng dụng AI trong giảng dạy văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao và du lịch” khu vực phía Nam.
Chương trình diễn ra hai ngày 24–25.11, dành cho lãnh đạo các trường, trưởng/phó phòng đào tạo, lãnh đạo khoa, chuyên gia, giảng viên từ 14 cơ sở đào tạo thuộc lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch khu vực phía Nam.
Tính cấp thiết việc tích hợp nội dung Kỹ năng số vào chương trình đào tạo sinh viên ngành VHTTDL
Phát biểu khai mạc, PGS.TS Đặng Hà Việt – Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ, Đào tạo và Môi trường (Bộ VHTTDL), Trưởng ban Tổ chức cho biết, Hội thảo diễn ra trong bối cảnh toàn ngành đang triển khai nhiều chủ trương lớn về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển nguồn nhân lực.
Ông nhắc các nghị quyết quan trọng như Nghị quyết 57-NQ/TW về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 71-NQ/TW về đổi mới căn bản giáo dục; đồng thời nhấn mạnh yêu cầu trang bị kỹ năng số cho người học như một nhiệm vụ cấp bách.
Theo PGS Đặng Hà Việt, ứng dụng công nghệ và AI là “đòn bẩy” để ngành VHTTDL đạt các mục tiêu phát triển bền vững. Ở văn hóa, việc thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW và Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa cần gắn chặt với công nghệ số để bảo tồn di sản và phát triển công nghiệp văn hóa.
Trong thể thao, chiến lược phát triển đến năm 2030 đặt rõ yêu cầu ứng dụng công nghệ trong huấn luyện và phân tích hiệu suất. Ở du lịch, mục tiêu xây dựng ngành kinh tế mũi nhọn đòi hỏi triển khai mạnh du lịch thông minh và cá nhân hóa trải nghiệm.
Ông nhấn mạnh ứng dụng AI không còn là thủ tục hành chính mà là yếu tố quyết định chất lượng đào tạo và năng lực hội nhập. “AI đang làm thay đổi phương pháp giảng dạy, chuyển từ lối dạy truyền thống sang học theo dự án. Thiếu kỹ năng số, nhân lực ngành sẽ khó tiếp cận các cơ hội mới”, ông nói.

PGS Đặng Hà Việt cho biết Hội thảo tập trung lấy ý kiến từ các chuyên gia, nhà quản lý và giảng viên về tính cấp thiết của việc tích hợp nội dung Kỹ năng số vào chương trình đào tạo sinh viên ngành VHTTDL.
Đây là bước đi quan trọng để hoàn thiện Khung năng lực số và Đề cương chi tiết môn học "Kỹ năng số trong ngành VHTTDL".
Bộ đặt mục tiêu sinh viên tốt nghiệp đạt mức năng lực số 5–6; kỹ năng số tốt được kỳ vọng giúp tăng cơ hội việc làm và cải thiện thu nhập khoảng 30%. Vụ trưởng cũng đề nghị giảng viên đổi mới tư duy, sử dụng AI như công cụ hỗ trợ các tác vụ lặp lại để dành thời gian cho chuyên môn.
NGƯT.TS Tôn Quang Cường, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ Giáo dục, ĐH Quốc gia Hà Nội, cho rằng AI cần được tiếp cận như “một trợ lý đáng yêu”, dễ dùng và hữu dụng. Chuyển đổi số và ứng dụng AI trong giáo dục là xu hướng không thể đảo ngược; các đơn vị đi sau cần đặt mục tiêu cao hơn, tận dụng kinh nghiệm từ người đi trước.
Ông đánh giá mục tiêu năng lực số 5–6 cho sinh viên theo Thông tư 02 là tham vọng nhưng phù hợp, nhất là khi Việt Nam đã có hệ thống chính sách rõ ràng về chuyển đổi số.
Theo ông, mức độ chấp nhận công nghệ phụ thuộc vào mức hữu dụng và độ dễ dùng. Trong bối cảnh văn hóa, thể thao và du lịch còn nhiều dư địa ứng dụng công nghệ, AI có thể giải quyết các nhiệm vụ phức tạp, mở rộng học tập phi truyền thống và giúp người học tạo sản phẩm ngay trong quá trình học.
Câu chuyện liêm chính học thuật và đạo đức trong nghiên cứu
PGS.TS Lâm Nhân - Hiệu trưởng Trường ĐH Văn hóa TP.HCM nêu vấn đề về liêm chính học thuật và đạo đức nghiên cứu trong bối cảnh các công cụ công nghệ, đặc biệt là AI, ngày càng can thiệp sâu vào quy trình nghiên cứu.

Ông cho biết trước đây, khi xử lý 1.200 phiếu khảo sát, nhà trường sử dụng phần mềm thống kê như SPSS để phân tích dữ liệu định lượng, còn dữ liệu định tính được xử lý bằng các công cụ hỗ trợ như NVivo.
“Giờ đây, với AI, cả hai dạng dữ liệu đều có thể được máy hỗ trợ tổng hợp và phân tích nhanh chóng. Vậy khi chúng ta nhờ AI xử lý dữ liệu khảo sát, liệu có vi phạm liêm chính học thuật hay không?”, ông đặt câu hỏi.
Theo PGS.TS Lâm Nhân, vấn đề không chỉ nằm ở khâu xử lý kỹ thuật, mà quan trọng hơn là mức độ can thiệp của AI vào quá trình phân tích và diễn giải của nhà nghiên cứu.
“Máy có thể chạy ra kết quả, nhưng phần đọc, phân tích và diễn giải phải là của chúng ta. Vậy ranh giới nào được xem là chấp nhận được, và ranh giới nào là vượt ngưỡng liêm chính?”, ông hỏi và đề nghị các đại biểu, đặc biệt là những giảng viên am hiểu công nghệ, tiếp tục góp ý để xác định tiêu chuẩn phù hợp trong môi trường nghiên cứu hiện nay.
PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Linh, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Thể dục Thể thao TP.HCM, cho rằng việc xây dựng học phần “Kỹ năng số” cần tính đến đặc thù đào tạo của khối trường văn hóa, thể thao và du lịch. Bà lưu ý tên gọi học phần phải phù hợp quy chế đào tạo trình độ đại học, tránh gây xáo trộn với chương trình đã kiểm định.
Về cấu trúc học phần, bà cho rằng quy đổi giờ dạy theo Thông tư 17 hoàn toàn khả thi, song điều cần quan tâm hơn là chuẩn đầu ra và năng lực của người dạy – người học.
Với các trường thể thao, việc tìm giảng viên đủ năng lực đảm nhận môn học này là thách thức lớn; trong khi nền tảng CNTT và ngoại ngữ của sinh viên còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu tiếp cận các nội dung nâng cao.
PGS Mỹ Linh đề xuất học phần nên có một “khung chung” cốt lõi, sau đó mở rộng theo từng đặc thù ngành. Riêng với lĩnh vực thể thao, nhu cầu ứng dụng AI tập trung vào phân tích thể chất, tư thế - kỹ thuật, tư duy chiến thuật và phòng ngừa chấn thương; do đó chương trình cần tính đến các yêu cầu thực hành đặc thù này.
NGƯT Đoàn Phúc Linh Tâm, Phó Hiệu trưởng Trường Trung cấp Múa TP.HCM cho rằng triển khai học phần kỹ năng số và AI trong nhóm ngành nghệ thuật cần bắt đầu từ ba yêu cầu: đào tạo đội ngũ giáo viên đủ năng lực; xác định nội dung giảng dạy phù hợp và rèn cho HSSV kỹ năng sử dụng AI như công cụ hỗ trợ sáng tạo.
Theo bà, đặc thù của các ngành nghệ thuật là đào tạo người sáng tạo, do đó chương trình phải chú trọng tư duy bản quyền, kỹ năng xây dựng hồ sơ nghề nghiệp số, và khả năng lan tỏa tác phẩm.
Bà đề xuất tăng tính thực hành, tạo sản phẩm thật, đồng thời gắn nội dung với bảo vệ hình ảnh cá nhân và ứng dụng công nghệ để quảng bá tác phẩm.
“Nếu tinh chỉnh theo đặc thù nghệ thuật, môn học này sẽ giúp người học biết sáng tạo, bảo vệ tác phẩm và sống được bằng nghề trong bối cảnh số”, bà nói.
Kết luận hội thảo, PGS.TS Đặng Hà Việt cho biết qua các ý kiến cho thấy đại biểu thống nhất cao về tính cấp thiết của việc nâng cao kỹ năng số cho nhân lực ngành VHTTDL trong bối cảnh cả nước triển khai các nghị quyết lớn về chuyển đổi số và phát triển nhân lực chất lượng cao.
Các đại biểu khẳng định Khung năng lực số là nhiệm vụ ưu tiên, giúp chuẩn hóa chuẩn đầu ra và bảo đảm nguồn nhân lực đáp ứng thị trường lao động số. Ban Tổ chức sẽ tiếp thu góp ý, đặc biệt là yêu cầu linh hoạt theo từng lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch để hoàn thiện khung năng lực trình lãnh đạo Bộ.
Về môn học Kỹ năng số, các ý kiến đều thống nhất việc xây dựng nội dung mang tính công cụ, thiên về thực hành và phù hợp nhu cầu ứng dụng AI trong từng chuyên ngành.
Vụ Khoa học Công nghệ, Đào tạo và Môi trường sẽ tổng hợp ý kiến, hoàn thiện đề cương chi tiết và trình lãnh đạo Bộ hướng dẫn triển khai, dự kiến thí điểm từ năm học 2026–2027.

RSS