​Chức danh khoa học ở Việt Nam(Bài 1): Đi tìm cội rễ của “chuyến tàu vét” phong hàm

VH- Từ hơn tháng nay, trên các phương tiện đại chúng và trong sinh hoạt xã hội đang rộ lên nhiều ý kiến, tranh luận, nhận xét, góp ý và cả những ý kiến phê phán ở các mức độ xác đáng về việc tăng một cách quá đột biến số lượng các nhà... khoa học danh tiếng nước nhà, giáo sư (GS), phó giáo sư (PGS) trên “chuyến tàu vét 174” (kết thúc tiêu chuẩn phong học hàm GS, PGS giai đoạn 2008-2017 theo quyết định 174 của Chính phủ, chuyển sang giai đoạn có tiêu chuẩn nghiêm ngặt thích đáng và hội nhập quốc tế hơn).

 

​Chức danh khoa học ở Việt Nam(Bài 1): Đi tìm cội rễ của “chuyến tàu vét” phong hàm - Anh 1

Tại cuộc họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 2.2018, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Mạnh Hùng cho rằng đợt xét công nhận phong hàm GS, PGS năm 2017 không có vấn đề gì. Thế còn 94 người đã được công nhận phải xem xét lại thì sao?

 Bài viết này xin đi sâu trình bày những hiểu biết cá nhân đã lĩnh hội được về việc đào tạo và phong hàm GS/PGS trên thế giới, trong quá trình “nhìn ra biển lớn”. Tác giả cũng là một nhà giáo trong lĩnh vực sức khoẻ, được phong hàm PGS trong "chuyến tàu" đầu tiên mang số hiệu 174 (2008), sau khi đã miệt mài làm việc, học tập, giảng dạy, nghiên cứu trong và ngoài nước; đào tạo nhiều nghiên cứu viên trẻ, đăng tải và thẩm định các bài báo khoa học trên nhiều tạp chí trong và ngoài nước. Cùng đi trên “tàu 174”, chuyến đầu và chuyến cuối, liệu có ai biết những ai giống, ai khác mình điều gì chăng?

Có 2 điểm cơ bản mà ở nước ta không giống họ

Đã từ rất lâu, trước khi về nước làm việc, có dịp học tập, nghiên cứu và làm việc với các đồng nghiệp trong ngành sức khoẻ tại các nước châu Âu, Bắc Mỹ, các nước và vùng lãnh thổ phát triển tại châu Á (Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc) và các nước có trình độ khoa học y học ngang hàng với Việt Nam chúng ta như Thái Lan, Philippines, tôi đã thấy có điều gì đó rất không giống về mặt bản tính, vị thế và trách nhiệm khoa học của những người có chức danh cao là GS/PGS, là những nhà giáo dục khoa học (professors) tại các trường và các viện nghiên cứu khoa học tại các nước đó với việc phong học hàm GS, PGS tại Việt Nam chúng ta gần đây (xin nhấn mạnh là “gần đây”, vì những GS, PGS thế hệ đầu từ những năm 1950 của thế kỷ 20 đến vài ba thế hệ tiếp đó trong những năm 60-70 của thế kỷ trước không có mấy khác biệt với thế giới).

Có rất nhiều điểm khác nhau tại các quốc gia và khu vực khác nhau trong các tiêu chí phong hàm GS/PGS, nhưng nhìn chung tại các nước đều có 2 điểm chung cơ bản sau mà ở nước ta không giống họ:

1. Về cách xác định nội hàm: Chức danh GS, PGS chỉ dành cho những chuyên gia giảng dạy lâu năm và có uy tín hàng đầu về cả (a) khoa học (tác giả chính các công trình khoa học công bố quốc tế đích thực, chủ trì các đề tài dự án là nền tảng khoa học của các công trình công bố trên các tạp chí khoa học có uy tín, có phản biện kép trở lên trong nước và quốc tế), và đặc biệt phải đồng thời (xin lưu ý từ “đồng thời”) là (b) những nhà giáo dục có uy tín trong những cơ sở đào tạo chính thống này [được các thế hệ học trò tôn vinh kính trọng, có ảnh bưởng sâu sắc đến tương lai của trò và vì vậy họ kỳ vọng noi gương “thầy” (teacher) suốt đời] cũng như sự kính trọng của các đồng nghiệp trong cùng chuyên ngành chuyên môn và được họ tín nhiệm như là những chuyên gia đầu ngành, như “thầy ruột” để tìm đến xin tư vấn nghề nghiệp bậc cao “professorat” khi cần. Như vậy, thuật ngữ “professor” có nội hàm sinh động, cao cả và thiêng liêng đối với giới khoa học, do kết hợp giữa (a) chuyên gia có uy tín cao trong lĩnh vực chuyên môn mà họ đang làm sứ mệnh truyền thụ kiến thức, (b) tại cơ sở đào tạo bậc cao.

 ​ Nhiều GS, PGS đến thế! Nhiều nhà khoa học thế! Nhiều “chim đầu đàn” thế! Làm sao không sinh ra lắm đàn, lắm “trường phái”! Và sao giáo dục nước nhà vẫn đi xuống? Sao trên bảng xếp loại vị trí khoa học thế giới tìm xuống tận gần đáy vẫn chưa thấy tên Việt Nam? Gốc rễ của sự phong hàm ồ ạt đã lộ ra từ bản chất và mục đích: vinh danh, không vinh thực!

Sự minh bạch và dân chủ

2. Về sự rạch ròi, không lẫn lộn hay mập mờ giữa các tính từ bổ ngữ cho danh từ “professor”. Sự minh bạch và dân chủ thực sự có tính chuyên môn thể hiện cụ thể như sau: (a) Chỉ có những chuyên gia giáo dục đầu đàn trong các cơ sở đào tạo chính thức (trường đại học và viện nghiên cứu tầm cỡ quốc gia) mới có chức danh GS. Thường thì mỗi lĩnh vực chuyên ngành/bộ môn chỉ có một vị trí giáo sư và một đội ngũ kế cận (associate professors), ít khi quá 2-3 người, do giáo sư định hướng, đào tạo và đề xuất công nhận chức danh trợ giáo kế cận; nhà trường/viện xét duyệt theo tiêu chí quốc gia; và cơ quan chủ quản (Nhà nước hoặc bộ chủ quản hay cơ quan chuyên ngành sâu được Nhà nước giao quyền) ra quyết định chấp nhận. Vị trí giáo sư đứng đầu đó sẽ được giao lại cho người kế cận xuất sắc nhất trong số associate professors mà thầy đào tạo bồi dưỡng và gây dựng (do chính thầy đào tạo và giới thiệu, được các đồng nghiệp trong đơn vị đào tạo chấp nhận qua bỏ phiếu tín nhiệm, được cơ sở đào tạo chấp nhận và cơ quan chủ trì chấp thuận bổ nhiệm).

Khi đã đào tạo, giới thiệu thành công người học trò xuất sắc nhất thay mình ở vị trí đầu đàn (giáo sư), thầy sẽ xin miễn nhiệm và giao vị trí duy nhất đó cho người kế nhiệm tin cậy và xứng đáng. Thầy sẽ yên tâm và thanh thản rời vị trí về nghỉ, không mang hàm giáo sư nữa. Sự tôn kính sẽ được thể hiện trong văn bản hay giao tiếp xã hội bằng tiếp đầu ngữ “ex” hoặc các thuật ngữ “ancient” (francophone) hay former” (anglophone). Và như vậy, chúng ta thấy rõ, chỉ có giảng viên cơ hữu mới có quyền trở thành giáo sư, vị trí trọng đại với trách nhiệm nặng nề dẫn dắt cả một ngành/bộ môn khoa học của một cơ sở đào tạo. Chỉ associate professor (ứng viên giáo sư hay còn được gọi là phó giáo sư) là giảng viên cơ hữu của các cơ sở đào tạo mới có quyền trở thành giáo sư tại cơ sở đó.

(b) Những người có uy tín chuyên môn và có khả năng hoặc có năng khiếu và có lòng đam mê đào tạo cũng sẽ được tạo điều kiện và cơ hội cống hiến cho sự nghiệp giáo dục dưới các hình thức khác nhau: mentor (người kèm cặp, thường là cho các học viên mới khởi đầu việc học), tutor (người hướng dẫn cho học viên thực hành nghề nghiệp), supervisor (người chỉ dẫn và kiểm soát, thường là cho các nghiên cứu viên). Những người này cũng sẽ được ghi nhận công sức và khả năng cùng sự cống hiến cho sự nghiệp khoa học và giáo dục trong chuyên ngành bằng các chức danh khoa học tương tự như giảng viên cơ hữu (professor), nhưng (xin lưu ý “nhưng”) có kèm theo định ngữ nhằm phân biệt và xác định rõ ràng họ là người ngoài cơ sở đào tạo và được mời tham gia giảng dạy: associated professor (giáo viên phối hợp/kiêm nhiệm), invited professor (giảng viên mời/thỉnh giảng) hay assistant professor (giáo viên trợ giảng). Danh từ “professor” ở đây chỉ mang ý nghĩa tương đối, có giá trị tượng trưng và xã giao, không có nghĩa khoa học thuần tuý là giáo sư. Điều cơ bản để xác định cho ý nghĩa tương đối của từ “professor” ở đây được quy định rất rõ trong văn bản nhà nước: những nhà giáo dục khoa học ngoài cơ sở đào tạo (trường đại học, viện nghiên cứu tầm cỡ quốc gia) không bao giờ có thể trở thành giáo sư trong cơ sở đào tạo để lãnh đạo sự nghiệp đào tạo của cơ sở. Một số trường hợp cá biệt trong những hoàn cảnh cá biệt (các phó giáo sư là giảng viên cơ hữu không/chưa đủ điều kiện trở thành giáo sư và một trong những giảng viên ngoài cơ hữu nhưng rất sáng giá được cả toàn ngành và giáo sư đầu ngành công nhận và giới thiệu đề xuất cơ sở giáo dục chấp nhận chuyển biên chế thành giảng viên cơ hữu nhà trường/viện để có đủ điều kiện tiên quyết (giảng viên cơ hữu) thành giáo sư của chuyên ngành/bộ môn của cơ sở đào tạo đó. Trường hợp này rất hiếm khi xảy ra ở các nước tiên tiến.

Vinh danh, không vinh thực

Từ người mà soi vào mình, chúng ta bắt đầu thấy hé mở tính khác biệt có tính gốc rễ. Từ bản chất nội hàm thuật ngữ GS/PGS, về chất lượng, tiến trình, cơ chế đào tạo, mục đích và phương cách phong hàm cũng như sự rành mạch về chức năng, nhiệm vụ, tên gọi và sự tôn nghiêm, chặt chẽ trong giới giáo dục khoa học có tính phổ biến thống nhất gần như tuyệt đối trên toàn thế giới. Trong khi phong trào “làm giáo sư” đang xảy ra “ào ạt” hằng năm tại Việt Nam, năm sau nhiều gấp đôi, gấp ba năm trước trong những năm đầu thế kỷ này và nhất là trong “chuyến tàu vét 174” vừa qua. Nhiều GS, PGS đến thế! Nhiều nhà khoa học thế! Nhiều “chim đầu đàn” thế! Làm sao không sinh ra lắm đàn, lắm “trường phái”! Và sao giáo dục nước nhà vẫn đi xuống? Sao trên bảng xếp loại vị trí khoa học thế giới tìm xuống tận gần đáy vẫn chưa thấy tên Việt Nam? Gốc rễ của sự phong hàm ồ ạt đã lộ ra từ bản chất và mục đích: vinh danh, không vinh thực! 

 PGS.TS.BS NGUYỄN VĂN BÀNG

 

 

Ý kiến bạn đọc