Xây dựng nền y tế Việt Nam khoa học, dân tộc, đại chúng
VHO - Bảy mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bức thư lịch sử gửi ngành Y tế, đặt nền móng cho một nền y tế cách mạng, nhân văn và phục vụ nhân dân. Ngày 27.2 hằng năm đã trở thành dịp để cả nước tôn vinh những người khoác áo blouse trắng, những “chiến sĩ áo trắng” không ngừng hy sinh, cống hiến vì sức khỏe cộng đồng.
Nhìn lại chặng đường đã qua và hướng về tương lai, việc xây dựng một nền y tế Việt Nam khoa học, dân tộc, đại chúng không chỉ là nhiệm vụ mà còn là sứ mệnh cao cả để hiện thực hóa khát vọng dân tộc: Một đất nước khỏe mạnh, phồn vinh, văn minh và hạnh phúc.
Y học là lĩnh vực không ngừng phát triển, đòi hỏi sự đổi mới, sáng tạo và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến. Trong những năm qua, Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong nghiên cứu y học, sản xuất vaccine, ghép tạng, điều trị ung thư, y học tái tạo...
Những tấm gương tiêu biểu trong lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng khoa học y tế có thể kể đến giáo sư Tôn Thất Tùng - người đặt nền móng cho kỹ thuật phẫu thuật gan hiện đại của thế giới. Ông không chỉ là niềm tự hào của y học Việt Nam mà còn được quốc tế ghi nhận với phương pháp cắt gan khô độc đáo.
Hay như giáo sư Đặng Văn Ngữ, người tiên phong trong nghiên cứu sản xuất thuốc kháng sinh penicillin trong hoàn cảnh chiến tranh vô cùng khó khăn, góp phần quan trọng vào công tác điều trị bệnh truyền nhiễm.
Để y tế Việt Nam thực sự khoa học, chúng ta cần có chiến lược phát triển bài bản hơn nữa. Đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu y sinh, công nghệ gen, trí tuệ nhân tạo (AI) trong chẩn đoán và điều trị là yêu cầu cấp thiết.
Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế, nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực y tế và cải cách hệ thống quản lý để đảm bảo ứng dụng khoa học một cách hiệu quả cũng là những nhiệm vụ không thể thiếu. Một nền y tế hiện đại không thể thiếu sự đồng hành của khoa học, bởi chỉ có khoa học mới giúp chúng ta đi xa, vươn cao và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
Một nền y tế phát triển không chỉ là nền y tế tiên tiến mà còn phải mang đậm bản sắc dân tộc. Việt Nam có một nền y học cổ truyền phong phú, được hun đúc từ hàng nghìn năm lịch sử.
Những bài thuốc nam, phương pháp châm cứu, bấm huyệt, dưỡng sinh không chỉ được nhân dân tin tưởng mà còn được thế giới công nhận là những di sản quý giá. Một trong những tấm gương sáng trong lĩnh vực y học cổ truyền là Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, người đã để lại kho tàng y học đồ sộ với bộ sách Hải Thượng y tông tâm lĩnh.
Ở thời hiện đại, Giáo sư Nguyễn Tài Thu - bậc thầy về châm cứu, đã có những đóng góp to lớn trong việc đưa châm cứu Việt Nam ra thế giới, giúp hàng triệu bệnh nhân phục hồi sức khỏe nhờ phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc.
Sự kết hợp hài hòa giữa y học hiện đại và y học cổ truyền chính là hướng đi bền vững để tạo nên một nền y tế vừa khoa học vừa đậm đà bản sắc Việt Nam. Những nghiên cứu về dược liệu, phát triển thuốc từ thảo dược, ứng dụng y học cổ truyền trong điều trị bệnh mạn tính, phục hồi chức năng… cần được quan tâm nhiều hơn.
Bên cạnh đó, việc chuẩn hóa, nâng cao chất lượng dịch vụ y học cổ truyền, đào tạo đội ngũ thầy thuốc có chuyên môn cao trong lĩnh vực này cũng là những điều cần làm để đưa nền y tế Việt Nam vươn xa trên trường quốc tế mà không đánh mất gốc rễ của mình.
Một nền y tế chỉ thực sự vững mạnh khi phục vụ tốt nhất cho nhân dân, không để ai bị bỏ lại phía sau. Với tinh thần “Thầy thuốc như mẹ hiền”, nền y tế Việt Nam đã không ngừng phấn đấu để mọi người dân, dù ở thành phố hay vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, đều được tiếp cận với dịch vụ y tế chất lượng.
Những tấm gương điển hình trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có thể kể đến bác sĩ Đặng Thùy Trâm - nữ bác sĩ trẻ tuổi đã hy sinh khi phục vụ y tế trong chiến tranh, để lại cuốn nhật ký đầy xúc động về lòng yêu nước và sự tận tụy của người thầy thuốc.
Hay như giáo sư, tiến sĩ, Anh hùng Lao động Nguyễn Anh Trí, nguyên Viện trưởng Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương, người đã có nhiều đóng góp quan trọng trong phong trào hiến máu nhân đạo, giúp hàng triệu bệnh nhân có cơ hội sống.
Trong những năm qua, hệ thống y tế cơ sở đã được củng cố, mạng lưới bệnh viện tuyến huyện, trạm y tế xã ngày càng được nâng cấp. Chính sách bảo hiểm y tế toàn dân, khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi và các đối tượng chính sách đã góp phần giảm gánh nặng chi phí y tế, mang lại cơ hội chăm sóc sức khỏe công bằng hơn cho mọi người dân.
Trong thời gian tới, để y tế thực sự “đại chúng”, chúng ta cần tiếp tục đầu tư mạnh mẽ hơn vào y tế cơ sở, đào tạo nguồn nhân lực y tế cho các địa phương còn khó khăn, cải thiện điều kiện làm việc để đội ngũ thầy thuốc yên tâm cống hiến.
Cùng với đó, việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý bệnh viện, phát triển y tế từ xa (telemedicine), giúp người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế mà không cần phải di chuyển xa, cũng là những giải pháp cần thiết.
Nhìn về tương lai, một nền y tế khoa học, dân tộc, đại chúng không chỉ là ước mơ mà hoàn toàn có thể trở thành hiện thực nếu có những chính sách đúng đắn, sự đầu tư bài bản và sự chung tay của toàn xã hội.
Điều đó đòi hỏi sự đổi mới trong tư duy quản lý, khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng khoa học, tôn vinh giá trị của y học cổ truyền và đặc biệt là đặt lợi ích của người dân lên trên hết.
Nhân kỷ niệm 70 năm ngày Thầy thuốc Việt Nam, chúng ta không chỉ tri ân những cống hiến của ngành Y mà còn cần cùng nhau hướng đến một tương lai nơi mọi người dân đều được chăm sóc sức khỏe một cách tốt nhất, nơi mà nền y tế Việt Nam không chỉ vững mạnh trong nước mà còn ghi dấu ấn trên bản đồ y học thế giới. Đó chính là món quà ý nghĩa nhất dành tặng cho những người thầy thuốc đã và đang miệt mài cống hiến vì sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân.
“Lương y như từ mẫu”, câu nói ấy vẫn vẹn nguyên giá trị, là kim chỉ nam cho nền y tế Việt Nam trong hành trình phát triển, vì một tương lai khỏe mạnh, hạnh phúc cho mọi người dân Việt Nam.